Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

ĐỨC PHẬT VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ - TT Thích Giải Thông Phần 11

            ĐỨC PHẬT VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ

(Dịch giả: TT Thích Giải Thông-Phỏng dịch theo bản tiếng Anh The light of truth của Giảng sư LOKANATHA )

      Chánh Báo Thanh Tịnh Y Báo Trang Nghiêm

Bằng cách nào làm cho cuộc thuyết pháp được kết quả? Ðối với công tác hoằng pháp có nhiều đặc tính như sau: 

1) Nhân cách vững vàng cần phải có. Bởi vì một người thiếu tư cách, phẩm chất yếu hèn sẽ không thành công được. 

2) Trình độ văn hóa cần phải có. Vị đó cần phải có trình độ học vấn cấp đại học. Nếu không vị đó không dễ gì thuyết phục được thính chúng người Tây Phương vốn có đầu óc khoa học, làm cho họ hiểu được vẻ trong sáng của Giáo lý Phật đạo vô song. 

3) Lòng thương yêu từ hòa cần phải có. Bởi vì hận thù sẽ bị đẩy lùi, còn thương yêu thì thu hút lòng người. Vì thế nếu nhà truyền giáo mà thiếu lòng từ bi thì khó có thể lôi cuốn tín đồ. 

4) Vị đó phải là một xướng ngôn mạnh mẽ. Bởi vì nếu thuyết giảng yếu giọng thì thính chúng dễ chán nản xa lánh. 

5) Vị đó phải có oai nghi sống đời đạo hạnh, phải thực hành những gì mình thuyết giảng và vị đó nên thuyết giảng những gì mình đã thực hành để giành được sự tin tưởng của quần chúng. 

6) Vị đó không có chỗ nào nghi ngờ nơi Pháp Phật để đẩy lùi những mối nghi ngờ của thính chúng bằng cách trả lời tất cả những câu hỏi. Một Giảng Sư chính thống phải là người biết “ăn câu hỏi”. Vị đó phải sống bằng những câu hỏi. Nếu vị Giảng Sư còn có chỗ ngờ vực nào, tốt hơn không nên thuyết giảng. Bởi vì điều rắc rối nhất là không đủ khả năng trả lời các câu hỏi khi bị chất vấn. 

7) Vị đó phải hiểu Giáo Pháp một cách thông suốt. Bởi vì nếu am hiểu Giáo Pháp vị đó mới có thể thuyết phục mọi người về vẻ đẹp giải thoát của Ðạo Phật. 

8) Vị đó phải biết ngôn ngữ của thính chúng và tâm lý của họ. Bởi vì nếu không hiểu được ngôn ngữ của người Tây phương thì làm sao vị đó có thể giảng giải cho họ nghe được và nếu vị đó không hiểu tâm lý của họ, làm sao vị đó có thể trình bày giáo pháp một cách toàn diện để thính chúng đánh giá được vị Giảng Sư đã nói gì. Nếu một Pháp Sư cứ giảng theo cách truyền thống, lập lại các bài giảng bằng cách học thuộc lòng thì người Mỹ sẽ không cảm nhận được. Vị Pháp Sư phải thuyết giảng bằng phương thức riêng của mình một cách khoa học, lời giảng phải đến thẳng từ tâm. Từ tâm truyền qua tâm. Nếu không, lời giảng của Pháp Sư nghe chẳng khác gì máy ghi âm phát ra hoặc con két đang thuyết Pháp. Ðến đây tôi xin nhấn mạnh một lần nữa tính cách đoàn kết mà Phật Giáo cần phải duy trì. Nguyên nhân của nhiều sự phân hóa chia rẽ từ trước đến nay mà ta chung chung cứ đổ lỗi vì tham, sân, si nơi mỗi cá nhân. Bây giờ ta lắng nghe lời dạy của Ðức Phật như khắc trên mỗi trường Phật học rằng: DUY TUỆ THỊ NGHIỆP–trí tuệ là sự nghiệp của người học Phật. Song phải trui rèn đạo hạnh, thanh lọc tâm thức, tập tu Bồ Tát hạnh, hạ thủ công phu, tụng kinh, tọa thiền mỗi ngày, luôn luôn chánh niệm và buông xả. Có được vậy chúng ta mới dễ hàng phục tham, sân, si vốn chia rẽ trong Giáo Hội Tăng Già và trong các tầng lớp quần chúng Phật tử. 

Về phần cá nhân, ta tự vấn: điều gì gây ra sự chia rẽ? Do lòng tham, họ nói họ tu tập giới hạnh, hoàn toàn đúng. Họ đã thực hành Panca-sita là năm giới điều và họ phải mở rộng lòng đại từ đại bi. Bởi vì hãy nhớ rằng lòng đại từ bi mới giúp chúng ta tu tập năm giới điều một cách hoàn hảo. Nhưng năm giới điều phải được thực hành không những chỉ cho thân, hoặc lời nói mà còn cả tâm ý nữa. Chúng ta không những không chỉ không sát hại mà còn không được nghĩ tới sát hại. Chúng ta không được lấy của không cho mà còn không được nghĩ tới việc lấy của không. Chúng ta không được nghĩ tới việc tà dâm hay nói láo hay uống rượu.v.v... Thế nên nếu không có lòng từ bi quảng đại thì không dễ gì thực hành được năm giới điều một cách buông xả được. Tôi vẫn thích đoàn kết dù phảì tổn thất một cá nhân. Chừng nào có được sự đoàn kết để tu học thì chúng ta mới hoàn toàn mãn nguyện, sự nghiệp giác ngộ mới viên thành. 

Ðến đây, để cảnh giác các đệ tử Phật không tin nhân quả và coi thường giới luật, tôi xin thuyết giảng vế kinh Ðề-Bà-Ðạt-Ða (lời cảnh báo của Thiên-Sứ): 

“Nếu người nào có chánh kiến, vị đó sẽ sanh về cõi trời Nếu ai đó có tà kiến, sẽ bị đọa xứ ở cảnh giới địa ngục. Có một thanh niên nọ chết với tà kiến, hắn đi đâu? Hắn vào địa ngục nhưng không phải địa ngục đời đời mà chỉ là địa ngục nhất thời. Trước khi Diêm Vương trừng phạt gã thanh niên đó, Ngài hỏi hắn một số câu hỏi:”Này gã nam tử kia! Có bao giờ ngươi trông thấy vị thiên sứ đầu tiên chưa?” Gã thanh niên trả lời: “Dạ con chưa bao giờ thấy vị Thiên sứ đầu tiên”. “Sao ngươi chưa bao giờ trông thấy một đứa bé nằm ngửa đó à ?” Gã thanh niên trả lời : “Dạ con có thấy ạ” . “Ngươi thấy không! Ðứa bé không ai giúp đỡ, cần có người khác lau sạch đứa bé khi mà nó dơ mình”. Gã thanh niên nói: “Vâng con đã thấy”. “Vậy thì vốn là một nam tử thông minh sao ngươi không quán tưởng như vậy: Ta rồi cũng phải chịu đau đớn sinh ra, ta phải thận trọng hành động, lời nói và ý tưởng của mình để không bị tái sanh như đứa bé này nữa”. Gã thanh niên nói : “Không! con không bao giờ nghĩ như vậy”. “Này gã nam tử, hãy nhớ rằng điều đó không phải lỗi của cha mẹ ngươi làm sai, đó cũng không phải là lỗi của bà con ngươi, mà lỗi lầm này chính là của ngươi và chính ngươi phải bị trừng phạt”. 

“Này gã nam tử, có bao giờ ngươi trông thấy vị Thiên-Sứ thứ hai chưa?” Gã thanh niên đáp: “Thưa chưa, con chưa bao giờ trông thấy vị Thiên-Sứ thứ hai”. “Chứ ngươi đã không thấy một ông già và bà già đang chống nạng đi kia sao?” Gã thanh niên trả lời: “Con đã không hiểu vậy”. “Ồ gã thanh niên! Ðó không phải là lỗi của cha mẹ ngươi hay lỗi của bà con ngươi mà chính là lỗi của ngươi và chỉ một mình ngươi và bị trừng phạt”. 

“Này gã nam tử! Có bao giờ ngươi trông thấy vị Thiên Sứ thứ ba chưa?”. Gã thanh niên đáp: “Dạ, con chưa bao giờ trông thấy”. “Sao! Ngươi chưa bao giờ trông thấy một ông già, một bà già đang đau ốm, đang khổ não với chứng bệnh khủng khiếp đó sao?”. Gã thanh niên đáp: “Dạ, con có thấy”. “Sao ngươi không nghĩ rằng rồi ngươi cũng phải chịu bệnh tật như vậy?”–gã thanh niên đáp: “Con thực không nghĩ vậy”. “Này gã thanh niên, đó không phải là lỗi của cha mẹ ngươi hay của bà con ngươi mà ngươi đã đến địa ngục. Chính do hành động của ngươi mà ngươi đến đây và một mình ngươi phải chịu khổ”. 

“Này gã nam tử! Có bao giờ ngươi trông thấy vị Thiên Sứ thứ tư chưa?”. Gã thanh niên đáp: “Thưa, vị Thiên Sứ thứ tứ là ai con chưa từng thấy”. “Ngươi không thấy một kẻ cướp phạm tội, sắp bị kết án, sắp bị treo cổ đó sao? Và tại sao ngươi không chịu suy nghĩ: ta hãy thực hiện chân thiện trong ý tưởng, lời nói và hành động”. Gã thanh niên đáp: “Con đã không nghĩ vậy”. “Này gã nam tử? Ðây không phải là lỗi của cha mẹ ngươi, cũng phải là lỗi của bà con ngươi mà là lỗi của chính ngươi gây ra và chỉ một mình ngươi bị hình phạt”. 

“Này gã nam tử? Có bao giờ ngươi trông thấy vị Thiên Sứ thứ năm chưa?”. Gã nam tử đáp: “Thưa, con chưa bao giờ trông thấy vị đó ạ !”. “Này gã nam tử? Trong đời của ngươi, ngươi chưa bao giờ trông thấy một xác chết của một người nam hay nữ sao? Xác bị phồng lên, bầm đen và mưng mử”. Gã nam tử đáp: “Dạ thưa Ngài con có thấy”. “Vốn là một nam tử thông minh, ngươi đã không hề suy ngẫm về mình rằng rồi ngươi cũng vậy, mãi mãi chịu tử vong và ngươi phải cư xử đúng đắn trong hành động, lời nói và việc làm”. Gã thanh niên đáp: “Con đã không nghĩ vậy”. “Này gã nam tử! Ðó không phải là lỗi của cha mẹ ngươi hay của bà con ngươi mà đó chính là lỗi của ngươi nên chỉ một mình ngươi bị hình phạt”. 

Bấy giờ Vua Diêm Vương vẫn im lặng nhưng Ngài giao gã thanh niên vào tay của những tên gác ngục và chúng đã làm gì? Chúng đẩy một thanh sắt nung đỏ vào ngực, vào hai tay, hai chân gã thanh niên. Ðây gọi là “ngũ xuyên” nghe rất giống như cảnh đóng đinh trên thập giá. 

Sau khi gã chịu hình phạt này, chúng dùng rìu đẽo thân gã, chỉ chừa đầu và chân, chúng cứa gã bằng dao cạo. Sau đó chúng neo gã vào xe ngựa rồi kéo xe chạy qua lại trên đống than hồng rực nóng; kế đó chúng bắt gã leo lên leo xuống một quả núi khổng lồ đang bốc cháy. Và cuối cùng nhận gã từ đầu đến chân vào cái vạc nấu đồng và nhiều lần trồi lên trồi xuống. Cuối cùng, sau khi xử lý cách trừng phạt kỳ lạ này, chúng quăng gã vào địa ngục khác. Ðây là một lối diễn tả khá đẹp. Ngục có 4 hình vuông, 4 cửa cái, 4 khuông viên vĩ đại bằng thép, trần nhà và xà nhà bằng thép, lan tỏa ra sức nóng sáng chói của thép, đi 300 dặm lối này và 300 dặm lối kia, rất nguy nga đồ sộ. Những ngọn lửa từ tường Tây ào tới đập mạnh vào tường Ðông. Những ngọn lửa từ tường Ðông phát ra đập mạnh vào tường Bắc. Những ngọn lửa bên trên phát ra đập mạnh xuống sàn nhà, những ngọn lửa từ sàn nhà đập ngược lên trần của đại hỏa ngục này. Cuối cùng, sau nhiều thế kỷ dài kinh khủng, cửa Ðông mở ra, nam tử đó đang cháy khắp mình, thực ra gã bị ăn khói trở nên thể khí, bởi vì hơi nóng quá mức, khiến hắn nhảy ngang qua sân để thoát về cửa Ðông; ngay khi hắn chạm vào cửa thì cánh cửa đóng sầm, dội ngược lại khiến gã đau đớn tuyệt vọng. Ðó chỉ là một trò chơi. Vì vậy gã phải chịu thống khổ, phiền não, bất toại nguyện. Hắn nghĩ rằng mình sắp thoát ra khỏi nhưng khi gã bước ra thì cánh cửa đóng sầm dội lại gã. Sau một thời gian dài nhiều triệu năm, cửa Tây lại mở ra, một lần nữa gã nhảy ngang qua một cách nhanh nhẹn và biến thành hơi khí. Ngay khi hắn bị đập vào cửa Tây thì cánh cứa đóng sầm vào gã, lại bị một bất hạnh đau đớn nữa. 

Bạn thấy đó, cuộc dời đầy dẫy khổ đau bất hạnh. Có một người đã nói với tôi, anh ta nằm mơ thấy mình trúng số 100 ngàn rúp, vậy là hôm sau anh ta bắt đầu bố thí làm phước để hy vọng trúng số, nhưng rốt cuộc không đạt được như dự tưởng; giống như gã nam tử đáng thương này ở trong địa ngục muốn nhảy băng ra ngoài nhưng cửa vẫn khép, gã đành tuyệt vọng. Sự bất hạnh tái diễn mãi gọi là DUKKHA là khổ. Gã nhảy băng qua cửa Nam sau nhiều triệu năm như vậy và lần nào gã cũng bị cánh cửa đập tung vào mặt. Rồi sau nhiều triệu năm nữa, cửa Bắc mở ra, lần này gã nhảy băng qua và trở thành hơi khí như lần trước. Gã lại một lần nữa bị cánh cửa đập tung vào mặt. Vì thế gã luôn luôn tuyệt vọng cam chịu bất hạnh khổ đau. 

Sau nhiều triệu năm nữa, cửa Ðông lại mở ra. Bất hạnh thay! Gã nghĩ là mình sắp được giải thoát, nhưng cũng không phải dễ. Ðiều xảy ra lần này hắn rơi vào địa ngục ô uế, địa ngục phân thối. Hắn tắm trong phân hôi hám. Trong phân uế có những sinh vật nhỏ mộng như cây kim, chúng bắt đầu đục xuyên vào da hắn, sinh vật lại châm xuyên qua xương. Sau khi qua xương chúng thấm vào bên trong và bắt đầu hút tủy trong xương. Gã nam tử đáng thương đau đớn vô cùng nhưng gã vẫn không thoát khỏi cơn cực hình cho đến khi ác nghiệp của gã rơi vào địa ngục than lửa, đầy than lửa nóng rực và nơi đó gã bị đốt thui bên phải, bên trái. Từ đó gã rơi vào địa ngục khác nữa, cảnh rừng cây bông vải rất cao và rừng này có những lá nhọn như cây kim dài khoảng nửa mét. Mặt lá đang rực lửa. Họ bắt gã phải leo lên leo xuống và cuối cùng những chiếc lá nhọn như gươm bắt đầu cắt tay chân của gã. Khi cơn gió thổi qua, những chiếc lá rthọn đó cứa lìa tay chân của hắn. Nhưng thật kỳ lạ, ở cõi địa ngục, mặc dù tay chân bị cụt hết liền lành trở lại như bình thường. Bây giờ gã lại có dư tay chân để bị chặt nhiều lần nữa. Từ đây gã rơi vào dòng sông Soda vĩ đại ăn mòn cơ thể hắn–Soda ăn mòn là một điều ghê rợn, nó đốt cháy thịt da giống như acit. Sau cùng gã trở thành chất lỏng chỉ còn lại mớ tóc nổi lềnh bềnh. Sau một lúc lâu có vài ngư phủ với từ tâm, tay cầm móc lôi gã vào bờ. Nhưng các ngư phủ đó là những tên cai ngục chứ không phải loài người. Các quỷ sứ canh ngục này giở giọng từ tốn: “Thưa Ngài”. Rõ ngộ? Ngay trong thế gian này, chúng ta thường gặp những kẻ thù, bề ngoài mặt thì họ rất tử tế độ lượng nhưng sau lưng chúng ta họ lại giở nhiều thủ đoạn. Chúng quỷ hỏi: “Thưa Ngài! Ngài cần gì?”. Gã nói: “Tôi đói kinh khủng”. “Ðược rồi, chúng tôi sẽ cung cấp món ngon vật lạ cho Ngài”. Chúng liền buộc gã mở miệng ra và bạn có biết chúng bỏ gì vào không? quỷ sứ đã bỏ vào một quả bóng bằng đồng nóng đỏ làm cháy miệng gã, cháy cả cuống họng, dạ dày, ruột gan, lan đi tất cả nội tạng. 

Thế nên nếu quý vị không muốn ăn quả cầu sắt đỏ như lửa, bị trấn áp bỏ vào miệng như một hình phạt trong hỏa ngục. Tôi khuyên tất cả quý vị nên phát nguyện ăn chay. Bởi vì nhờ phước báu của sự ăn chay–không nợ máu chúng sanh thì tất nhiên quý vị sẽ không ăn quả cầu nóng đó mà sẽ hưởng món ăn dễ chịu hơn. Nếu không, bây giờ chúng ta ăn thịt thì chắc chắn mai sau chúng ta sẽ ăn những quả đồng nóng rực như vậy. 

Sau khi cống hiến cho gã một bữa cơm thịnh soạn như vậy khiến tất cả bộ ruột của gã phải đứt rơi ra ngoài. Chúng quỷ còn hỏi tiếp: “Thưa Ngài, Ngài còn cần thêm gì nữa không?”. Gã nói: “Tôi khát nước kinh khủng”–vậy sao? Chúng nói: “Chúng tôi sẽ dâng Ngài món rượu Champagne tuyệt hảo”. Chúng làm sao quý vị biết không? chúng quỷ cạy miệng gã ra và đổ vào một loại nước đồng nấu chảy, nó kinh khủng làm cháy toàn bộ miệng lưỡi, cuống họng, bao tử, ruột gan.v.v... 

Những ai thích uống rượu, phá giới thứ năm, có lẽ khi vào địa ngục này họ mới thưởng thức món uống đặc biệt khoái khẩu hơn nhưng không say lắm. Nếu ai không thích uống nước đồng nấu chảy thì tốt hơn đừng uống ruợu hay các chất say mà chỉ nên dùng loại nước bồi dưỡng hay giải khát nào không có hại sức khỏe và trí tuệ cũng như nhân cách của con người. Cuối cùng sau khi phục vụ món giải khát cho gã một cách lịch sự, các quỷ ngục nắm đầu và chân, khiêng quăng gã một lần nữa vào địa ngục, tương tự như trước kia, 300 dặm lối này, 300 dặm lối kia với 4 cửa ngục và đốt cháy toàn bộ. Vì vậy gã lại bị hành hình như trước kia. Tại sao vậy? Bởi vì gã không có đủ thì giờ để trả cho hết túc nghiệp. Chúng quỷ muốn cho gã một hương vị khác tương tự như vậy. 

Về phần Diêm Vương, sau khi đã chứng kiến những khổ cảnh ghê rợn như vậy ở địa ngục, liền phát nguyện: “Ðịa ngục quả là một nơi khủng khiếp, mong sao ta được tái sanh làm người. Mong sao ta được sinh ra gặp thời Phật xuất thế, mong sao ta được nghe Giáo Pháp của Ngài và liễu ngộ chân lý tất cả”. 

Nói đến dây Ðức Phật dạy: “Này các Sa Môn! những gì Như Lai đang nói cho quý Thầy, Như Lai chưa nghe từ miệng của người khác dù là một đạo sĩ hay một Bà La Môn. Những gì Như Lai nói, Như Lai chỉ nói cho quý Thầy những gì mà chính Như Lai đã thấy và tự chính mình chứng ngộ”. Ðức Phật nhìn thấy địa ngục bằng chính mắt của Ngài. Bởi vì Ngài không mô tả những Ngài chưa nhìn thấy. Ðức Phật chỉ mô tả những gì chính Ngài đã nhìn thấy chớ không có gì khác 

Sau khi cảm nhận được những cảnh ghê rợn ở địa ngục, chúng ta phải chăm chú hơn, chánh niệm trong mỗi hành động, phải cực kỳ tinh tấn giống như một người bị chi phối bởi một thanh gươm đang đe dọa. Giả sử như một người đang ngồi và trên trần nhà đang có một thanh gươm đang treo lơ lửng bằng một sợi tóc nhỏ, và sợi tóc có thể đứt bất cứ lúc nào, khiến lưỡi gươm có thể đâm qua sọ của anh ta. Quý vị có nghĩ rằng, anh ta dám yên tâm ngồi ngủ không, hay nói chuyện nhảm nhí với người bạn mà trở thành người đa ngôn, hay lãng phí thời giờ đọc sách tiểu thuyết vô ích, hay truyện thần tiên vô bổ? Không, vị đó rất tích cực, luôn luôn khẩn trương giải cứu nghiệp lực của mình. 

Giả một người bị quấn một chiếc khăn lửa trên đầu, bạn thử nghĩ anh ta có dám đi xem chiếu bóng trong tình thế lửa bốc cháy trên đầu như vậy không. Chắc chắc là không. Anh ta phải chạy khẩn cấp chỗ này chỗ kia tìm nơi gần nhất có nước để dập tắt ngọn lửa đang cháy trên đầu. Tương tự, chúng ta phải chạy nhiều nơi tìm cầu trí tuệ để thoát ly ngọn lửa tham ái, sân hận và ngu độn; những ngọn lửa đang xô đẩy chúng ta vào địa ngục thấp kém nhất. Có lẽ người ta nghĩ rằng có rất ít người bị đọa địa ngục. Nhưng không phải vậy Ðức Phật đã khuyến cáo rằng đa số đều đọa địa ngục chỉ một thiểu số thoát khỏi. Ðể hình tượng hóa, một hôm Ðức Phật lấy một ít đất rồi đặt trên đầu móng tay của ngài và ngỏ lời với Chư Tăng, Ngài dạy: “Này các Tỳ Kheo! Chút đất mà Như Lai có trên đầu ngón tay này so với số đất bao la có trên trái đất, số đất nào nhiều hơn?”. Chư Tỳ Kheo đáp lại: “Bạch Ðức Thế Tôn! Quả là nhiều số đất có trên trái đất này và quả là ít số đất có trên ngón tay của Như Lai”. 

Ðức Phật dạy: “Tương tự như vậy, quả thật rất ít người được tái sinh vào cõi chư Thiên hay được tái sinh làm người và ngược lại có vô số loài người tái sinh làm ma quỷ, súc vật hay đọa địa ngục”. 

Thế nên khi nhận ra rằng địa ngục là gần chứ không xa, chúng ta phải chuyên cần, chớ dửng dưng mà say mê lạc thú. Thực sự, ta cảm nhận rằng được tái sinh làm người là một việc hi hữu; bởi vì con người có trí thông minh hiểu biết nhờ vậy mới có thể phân biệt đúng sai. Con người có thể có khả năng thành Trời, Thần. Hãy nhớ rằng Chư Phật luôn luôn xuất thế làm người. Ðức Phật sinh ra như một con người, có mắt, tai, mũi, lưỡi như chúng ta. Thật là đại hồng ân cho chúng sinh được tái sinh làm người. Quý vị có biết tại sao làm người lại được lợi lạc hơn làm Chư Thiên không? Tôi tự nhủ bất cứ ai cũng có thể trả lời được câu hỏi này. Loài người có nhiều thuận duyên hơn Chư Thiên, bởi vì chư vị cõi trời sống hàng triệu năm trong khi con người, nếu may mắn chỉ sống một trăm năm. Chúng ta sống ở cõi trần có thể hiểu được ý nghĩa của vô thường, khổ và vô ngã; bởi vì chúng ta trông thấy rõ cánh hoa phai tàn hằng ngày. Chúng ta thấy rõ con người mau chóng trở nên già nua, cằn cỗi, bệnh hoạn, tử vong ra sao. Trái lại, trên cõi trời họ luôn luôn tươi trẻ và sự thay đổi rất chậm. Họ không nắm bắt được ý nghĩa của vô thường, khô, vô ngã như chúng ta. Bởi vì Chư Thiên sống hàng triệu năm. Họ cứ nghĩ rằng họ bất tử, bất diệt. 

Hãy nhìn kỹ lại trần gian này, nếu may mắn người ta sống được 100 năm nhưng họ lại không bao giờ nghĩ rằng mình sắp chết, mà cứ nghĩ rằng mình bất tử. Họ cũng thấy người ta chết hàng ngày, nhưng họ lại nghĩ họ không bao giờ chết. “Người hàng xóm tôi chết còn tôi thì không”. Ðó là một sự thôi miên, sự gây mê chính mình, thử tưởng nếu chúng nhân chỉ sống có trăm năm mà họ nghĩ rằng họ sẽ không chết thì quý vị Chư Thiên sống hàng triệu năm, họ sẽ nghĩ họ bất tử. Có một vị trời Phạm Thiên tưởng rằng mình không chết, Ðức Phật vận hành cõi trời, cải nóa vị trời Phạm Thiên, chứng tỏ cho vị đó thấy ai rồi cũng phải chết. Ðó? Quý thính chúng thấy chưa, ngay cả chư Thiên còn phải có ngày hết tuổi thọ, huống gì là chúng ta ở trần gian bấp bênh ngắn ngủi này. Vậy tốt hơn ta nên tái sinh làm kiếp người nếu ta muốn nhanh chóng thành tựu quả vị Niết Bàn. Nhưng nếu không vội vã thì vị đó có thể thực hiện thử một chuyến tham quan lên cõi trời khi mình đã thặng dư công đức. 

Cuộc đời là một trường học, chúng ta cần một trường học Phật. Hầu hết mọi tâm thức mọi người chỉ ở lớp mẫu giáo. Tại sao? Bởi vì họ không phải là người chứng quả Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm. Họ cũng không phải là những bậc A La Hán. Trong Phật Giáo có 4 giai đoạn tịnh hóa chứng quả. Tu Ðà Hoàn là người tái sinh nhiều nhất bảy lần nữa và A Na Hàm là người sẽ không bao giờ tái sinh nữa. Bậc A La Hán đương nhiên chứng quả Niết Bàn ngay trong đời này và ngay khi tịch diệt. Nhưng mọi người chưa chứng quả Tu Ðà Hoàn nên coi như đang học lớp mẫu giáo. Hãy nhìn ngắm các trẻ em, chúng đang chơi các đồ chơi, chúng xếp từng khối vào nhau. Chúng dựng một cái nhà, và ngộ  thật, khi làm nhà xong, chúng reo vui rồi đưa chân đá, phá sạch và trò chơi lại kết thúc. Cũng tương tự như trẻ em trên thế giới trình độ cấp mẫu giáo, chúng ra công xây dựng 1 thành phố nguy nga, đồ sộ, hết sức tốn kém, tạo dựng thêm nhiều dãy nhà tráng lệ, ấy vậy mà khi chúng chán nản, không thích xây cất nữa, chúng bỏ một trái bom nguyên tử nhỏ đánh sập toàn bộ và rồi bỏ đi không một chút thương tiếc. Nhà cửa sạch phẳng chúng ta không còn tìm thấy ngay cả những viên gạch nhỏ. 

Suy ra như vậy, loài người có khác gì trẻ em trên trần gian điên đảo này. Họ phấn khởi ra công xây dựng nhiều thành phố, nhà máy, trường học.v.v... rồi bỗng nổi cơn “vô minh, tham ái, chấp thủ”, họ tuôn hàng loạt bom đạn tiêu diệt toàn bộ. 

Ðến đây, tôi lại nêu thêm một hình tượng nữa: thế gian giống như một thập tự giá. Tôi đã nói về sự đóng đinh trên thánh giá ngay từ đầu tại địa ngục. Trần gian này quả là thập tự giá. Chúng ta liên tục đóng đinh trên thập tự giá. Sáu giác quan gồm có mắt, tai, mũi, thân, ý là những chiếc đinh. Chúng ta bị đóng đinh lên thập tự giá bằng sáu cái đinh–tức là sáu giác quan. Cho tôi hỏi quí vị một câu: “Ðinh nào mạnh hơn? Ðinh làm bằng sắc thép hay làm bằng sáu giác quan?”. Sáu giác quan phải mạnh hơn. Tại sao? Bởi vì đinh làm bằng sắc thép chỉ kéo dài một giai đoạn nào mà thôi. Chúng ta có thể rút tay ra khỏi những cây đinh. Chúng ta có thể dùng chân đá và rút chân ra khỏi những cây đinh. Bạn có thể nào đá mất sáu giác quan không? Tại sao? Bởi vì các giác quan hình thành bằng chất liệu vô minh, tham ái. Bạn có sáu giác quan ấy bao lâu rồi? Từ quá khứ xa xưa. Trong khi những đinh thép chỉ có thể tồn tại một đời hay chỉ vài giờ lúc bạn ở trên thập tự giá. Mặt khác, sáu giác quan mà bạn đã có từ quá khứ vô thỉ kiếp này sang kiếp khác. Ðó là lý do tại sao đinh làm bằng sáu giác quan mạnh hơn đinh làm bằng sắc thép. 

Loài người chúng ta cứ liên tục bị đóng đinh trên thập tự giá trần gian do sáu giác quan; nhưng vẻ đẹp của sự đóng đinh trên thập tự giá là cái đẹp mà người ta thích. Do thích được đóng đinh hơn. Họ yêu thích sáu giác quan, thậm chí họ còn trả tiền để hưởng khoái lạc của sáu giác quan. Họ muốn được đóng đinh chắc chắn hơn trên thập tự giá trần gian như xưa kia. Do đó rõ ràng thế giới là một nhà thương điên khổng lồ.

Ðau đớn và khoái lạc thường đi đôi với nhau, chúng không hề tách rời nhau. Vì vậy hễ ai còn ôm ấp khoái lạc thì phảì ôm ấp đau khổ. Cái giá của khoái lạc là đau khổ–họ muốn hạnh phúc vô tư và yên bình của Niết Bàn tối thượng. 

Xưa có một nhà tu khổ hạnh sống yên bình trong một ngôi am. Một hôm có hai chị em nọ đến gặp Ðạo sĩ. Họ là hai chị em kỳ lạ. Một người thì cực kỳ đẹp đẽ, đáng yêu! Còn người kia thì cực kỳ đáng sợ vì bị cùi khắp cơ thể. Họ luôn luôn đi bên nhau, không hề xa cách một phút giây nào. Họ đến gõ cửa am thất. Vị Ðạo sĩ hỏi: “Ai đó?”, hai chị em đáp: “Mô Phật! Dạ chúng con là hai chị em”. Ðạo sĩ bước ra mở cửa, hai chị em đồng thưa: “Xin Tôn Sư cho phép chúng con vào bên trong”. Vị Ðạo sĩ trả lời: “Ta muốn cô đẹp kia bước vào”. Nhưng cô đẹp liền thưa: “Xin cảm phiền Ngài cho phép hai chị em chúng con cùng vào, cô xấu xí kia và cả con nữa. Ngài phải cho phép cả hai hoặc là không hết”. “Thật vậy sao!”. Vị đạo sĩ vừa nói vừa xách một cây gậy thật to rượt hai chị em cùng chạy mất. 

Vị Ðạo sĩ muốn chẳng có người nào thì tốt hơn. Ông quả là một nhà tu có trí tuệ, ông có kinh nghiệm ứng xử. Nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều nhà tu thiếu bản lĩnh–trụ tướng sanh tâm, làm đổ vỡ cơ nghiệp. Trên thế gian này chúng ta dám nói có trên 90% cần cả hai–cái đáng yêu cũng như cái đáng sợ, bởi vì họ muốn khoái lạc và đau khổ. Nhưng bậc trí giả chỉ muốn khoái lạc chứ không muốn đau khổ và nếu cả hai gắn bó không rời thì vị Ðạo sĩ buộc phải đẩy lùi khoái lạc và cũng không ưa đau khổ. Vị đó tống xuất cả hai. Vị đó nhập đạo tu hành, hưởng quả an vui phúc lạc tối thượng. Rút bài học trên, chúng ta phải là một hiền giả có trí tuệ, khôn ngoan chứ không khờ dại đam mê cả khoái lạc lẫn đau khổ. Ðiểm then chốt là không phải tách rời cái này khỏi cái kia–cái đẹp và cái xấu, vì khoái lạc là gốc rễ của đau khổ. Mới nhập đạo, ta nên nương hạnh giới nên ta chọn Ðiều Thiện, khi chứng đắc Niết Bàn, thiện ác không hai, ta quên luôn cả phương tiện. 

Các sự vật trên cõi đời này nếu được nhìn đúng thực tướng thì chúng đều là uế nhiễm mục nát. Hãy lấy một chiếc đầu trống trơn làm ví dụ. Nhìn gương mặt có nét rất dễ thương, nhưng nếu chúng ta cạo lớp sơn và bột đó ra ta thấy lớp da, lột lớp da chúng ta mới thấy một chiếc sọ đang nhe răng trông rất khiếp. Mọi người đều mang một chiếc sọ đang nhe răng khủng khiếp trên vai mình. Bạn cứ tưởng tượng có ai dám nghĩ rằng mình đang mang một chiếc sọ đầu lâu nhe răng kinh hồn không? hãy tính xem có bao nhiêu người đang bị các hình dáng bề ngoài mê hoặc và dối gạt. Các thi sĩ vốn đa cảm trong cơn cao hứng thường mô tả sắc đẹp dậy trời của bao gương mặt. Nhưng làm sao chúng ta biết rõ mình đang có một chiếc đầu lâu đang nhe răng kinh khiếp như vậy? Bằng chứng ở đâu? Bạn có thể trông thấy bất cứ phần nào của chiếc đầu lâu đang nhe răng khủng khiếp, bạn có thể trông thấy bất cứ chiếc xương nào của chiếc sọ hiện giờ chưa? Vâng, đó là răng. Rõ là thiên nhiên đã ưu đãi chúng ta, nó che toàn bộ đầu sọ để dối gạt chúng ta nhưng nó quên che bộ răng. Vì vậy bất cứ lúc nào chúng ta cũng nhìn thấy bộ răng và lập tức ta hình dung được toàn bộ sọ người từ răng, bởi vì răng là thành phần của sọ người. 

Tôi xin kể một sự kiện có thực. Ngày nọ có một vị Tăng ở Tích Lan. Ngài đang tu tập thiền quán gọi là “Thiền Cốt”–quán xương–vị Tăng luôn luôn niệm tưởng đề mục xương, xương và không gì khác ngoài xương. Sau đó điều gì xảy ra? trong khi Ngài đang đi kinh hành ven khu rừng, chợt một thiếu phụ xinh đẹp xuất hiện. Cô ta vừa mới cãi lộn với chồng và đang trên đường về nhà cha mẹ. Cô đi một mình với trang phục lộng lẫy xinh đẹp giống như một nữ thần ở cõi trời. Khi trông thấy vị Tăng cô ta liền khởi lên tà niệm trong đầu. Phần vị Tăng vẫn chăm chú nhìn xuống theo đúng giới luật. Vị Tăng lúc nào cũng quán tưởng đến xương, xương và không gì ngoài xương. Bởi vì đó là đề mục thiền quán. Cô gái đẹp cứ nghĩ mình có thể cám dỗ được vị Tăng. Cô bắt đầu phá cười lên để lộ hàm răng trắng đẹp. Vị Tăng đang nhìn xuống, bỗng nghe có tiếng cười, liền ngẩng đầu lên, đối mặt, vị Tăng nhìn thẳng vào răng của cô ta, vị Tăng hoát nhiên hô lên “xương” và thế là Ngài chứng quả A La Hán có nghĩa là bậc Toàn Giác. Cô thiếu phụ đó đã rất tốt đối với vị Tăng, cô giúp Ngài đạt được giải thoát cao tột. Cô ta quả là ân nhân của Ngài, bởi vì nhờ cố ý cám dỗ, cô ta đã cho Ngài quả vị A La Hán. Dĩ nhiên là không may vì điều đó không phải luôn luôn vận hành như vậy. Chỉ có một phần triệu người chứng quả A La Hán nhờ nhìn vào bộ răng của người khác phái. Hầu hết đều giống như thân phận của loài cá, chúng sẽ bị bắt bởi lưỡi câu của các ngư phủ. 

Câu chuyện không dừng ở đây. Người thiếu phụ vừa đi khỏi, cô ta không nhận ra rằng chính mình đã giúp vị Tăng đạt kết quả. Rồi thì người chồng đến, bởi vì anh ta vừa thấy mất vợ liền chạy theo sau. Anh ta gặp ngay vị Tăng và hỏi, “Thưa Tôn Giả ? Ngài có trông thấy một thiếu phụ chạy ngang qua lối này không ạ?” vị Tăng đáp lại: “ông nào, bà nào chạy ngang qua lối này, tôi nào có biết. Tôi chỉ thấy một nhà xương chạy ngang qua lối này”. 

Ðó quý vị thấy không? vị Tăng này đã thấy sự thật. Ngài không thấy giống phái của người nào chạy qua. Ngài chỉ chánh niệm nhìn chăm chú vào răng chứ không thấy phần nào khác của thân và vì vậy vị Tăng đã nói sự thật. Chúng ta phải học cách thấy như vậy và tập trung vào đề mục thiền quán của chúng ta, nên khi bị cám dỗ, chúng ta vẫn có thể chứng đạt mục đích cao thượng nhất. Chúng ta phải liên tục quán xét các sự vật đúng như thực tướng của chúng. Bởi vì khi vạn hữu được nhìn đúng như thực tướng thì chúng chỉ là thứ uế nhiễm tanh hôi. 

Có hai loại nô lệ: nô lệ tinh thần và nô lệ vật chất, nhưng nô lệ đối với giác quan là nô lệ tệ hại nhất trong tất cả, chỉ có bậc A La Hán hay Chư Phật mới thực sự giải thoát. Có hai loại phong cùi. Phong cùi về tinh thần và phong cùi về thể xác. Loại nào tệ hại hơn? Nếu có người bị giày vò đau đớn vì bệnh phong cùi, chắc chắn vị đó phải chạy đến Bác sĩ để xin điều trị. Nhưng trớ trêu thay người đau ốm về chứng phong cùi “tâm linh” tức là vô minh tham ái thì không ai chạy đến Bác sĩ tâm linh ngoại trừ những ngày sám hối, rằm, mùng một mới đến nhờ chữa trị. Giờ đây tôi cũng đang diều trị chứng phong cùi tâm linh bằng sự bố thí Giáo Pháp đến quý vị. 

Và mới đây, tôi nhận được môt lá thư của một bệnh nhân cùi. Bất hạnh thay, anh ta lại bị khổ đau cả hai chứng bệnh cùi thể xác và cùi tâm linh. Chúng ta đang đau khổ về một chứng phong cùi duy nhất. Còn những người bị phong cùi đơn độc này, chịu đựng gấp hai và đang bị cô lập thật bi thảm trong nhà thương cùi. Ðây là một bức thư trại cùi ở Johore Bahru, một em trai bị cùi nói: Kính thưa thượng Tọa, con là một bệnh nhân cùi, vốn có học tiếng Anh, con được vào trại này cách đây 14 năm, lúc con 16 tuổi. Con là một Phật tử, con rất mong muốn được hiểu biết Phật Pháp nhưng con rất đau buồn mà nói rằng con không thể tìm đâu ra một người am hiểu Phật Pháp hoặc tìm được một quyển sách nhỏ nào để đọc trong trại vì con không được phép ra khỏi nơì đây. Mẹ con là một Phật tử thuần thành, bà hiểu Ðạo Phật nhờ thường xuyên đi lễ chùa ở Singapore. Con không ở lại nhà với cha mẹ nên không có dịp nào để học hỏi với mẹ. Ở đây cũng có một số đồng bạn của con, chúng cũng tự gọi mình là Phật tử. Con ngạc nhiên vì chúng hiểu đạo không hơn gì con. Chúng không hiểu những gì mà Phật Giáo muốn nói với chúng. Chúng là Phật tử tại tâm. Chúng rất siêng học và cầu nguyện, nhưng chẳng có người nào dạy chúng. Ðầu tiên con cố gắng tìm kiếm địa chỉ của một người quen. Chúng con cần sách Phật, kể cả những sách báo thường. Chúng con không có sách gì đọc trong những lúc rảnh rỗi. Ðối với dân số trong trại này có 204 người mang bệnh cùi, chúng con cứ gọi nhau là Phật tử mà chẳng có quyển sách Phật nào trong tay. Qua lời thỉnh cầu mộc mạc này con xin kêu gọi Thượng Tọa từ bi thương tưởng gởi cho chúng con một số sách về Ðức Phật viết bằng tiếng Hoa hay tiếng Anh để thời giờ quý báu của chúng con khỏi trôi đi một cách oan uổng, và để chúng con có thể dùng thì giờ một cách lợi lạc nhờ đọc sách. Hy vọng với lời thỉnh cầu kém cõi của con sẽ được đáp ứng từ lòng bi mẫn và sự thương cảm quan tâm của Thượng Tọa. 

Kính thư. 

Con xin đảnh lễ ơn đức Thượng Tọa. 

Sau khi nghe xong lá thư, quý vị và chúng tôi phải làm gì đây? Chúng ta không có sách bằng tiếng Hoa. Tôi nghĩ là tôi sẽ yêu cầu Hội Phật Học ở đây soạn viết những tập sách nhỏ về Phật Pháp để chuyển vào trại cho họ càng sớm càng tốt. 

Ðến đây tôi xin giảng thêm một khía cạnh về pháp điều phục tâm. Suốt trong chiến tranh, nhiều nơi phải kinh hoàng vì bom đạn. Dĩ nhiên người có đạo hay không–lúc khiếp vía cũng đều cầu nguyện gọi tên Phật, Chúa liên hồi. 

Nhưng đừng quên rằng có nhiều phương thuật để diệt trừ sợ hãi. Nếu người ta chỉ nhớ rằng chân lý chỉ bảo vệ người làm theo chân lý, trong chiến tranh, dù sanh tử diễn ra trước mắt nhưng những ai nghĩ đến lời Phật dạy, giữ đúng Giới điều, vị ấy không bao giờ đau khổ, vì anh ta tin vào quy luật nhân quả, tin vào sự nhiệm mầu của khả năng đọc tụng các thần chú, trong tình huống xấu cũng trở thành tốt đối với anh ta. Nếu vị đó nghĩ đến chư Thiên, vị đó cũng không bị đau khổ. Trong số 11 điều lợi ích làm an lạc thân tâm, với tâm từ quảng đại, vị đó không còn phải lo sợ về thuốc độc hay gươm giáo, hay bom đạn tàn phá, vị đó bình thản trước mọi nguy nan. Một cách khác nữa để diệt trừ sự đau đớn của cơ thể, bằng cách suy tưởng về cái không thực của cơn đau. Phương pháp y học, người ta dùng vài giọt ête hay thuốc gây mê có thể dập tắt cơn đau qua một cuộc giải phẫu chính thức trong phòng thí nghiệm, khi bác sĩ phẫu thuật của đứt tay hay chân, bệnh nhân không có cảm giác gì hết. Cái nào mạnh hơn? Thuốc gây mê hay tâm thức? Hãy nhớ rằng đau đớn chỉ là một niệm tưởng. Con người gồm sáu yếu tố: Ðất, nước, gió, lửa, khoảng trống và thức. Thử hỏi cái nào trong sáu yếu tố này cảm thấy đau. Nước cũng vậy, gió, lửa, khoảng trống cũng vậy, chỉ một mình ý thức cảm thấy đau mà thôi. Ðất không cảm thấy đau, nước cũng vậy, gió, lửa, khoảng không cũng vậy. Một mình ý thức cảm thấy đau thôi. Vậy thì thức là gì? Là năng lực tâm linh. Năng lực tâm linh là gì? Là sự chuyển động vô rgã (khách quan). Giấc mơ là một sự kiện tâm linh, vì vậy cuộc đời như giấc mộng. Hãy nhớ rằng sự đau đớn chỉ là một niệm tưởng và niệm tưởng là gì? Niệm tường là một chút năng lượng tâm linh. Vậy tại sao ta lại phiền não về một chút năng lượng tâm linh vô ngã đó? cho nên nếu ta nhận thức được rằng đau đđn chỉ là một niệm tưởng thì bất cứ khi nào bạn nhờ y sĩ nhổ răng, đừng yêu cầu ông ta tiêm thuốc gây mê hay bất cứ loại thuốc nào khác. Chỉ nên tiêm thuốc trí tuệ và thiền quán. Nhận thức rằng đau răng chỉ là một niệm tưởng. Nó chỉ là một sự kiện tâm linh. Vậy sự kiện tâm linh là gì? Ðó là một năng lượng tâm linh nhỏ chút và năng lượng tâm linh là gì? Là sự chuyển động vô ngã (có tính khách quan). Nếu bạn nhận ra rằng đau đớn chỉ là một niệm tường, bạn nên ném bỏ ý tưởng đó bởi vì nó chỉ là một niệm tưởng tạm bợ thoáng qua. Nếu bạn không ném bỏ đi nó cũng tự động bay mất, bởi vì niệm tưởng không bao giờ ở lại. Nó bay với tốc độ hàng triệu dặm mỗi phần nhỏ của giây. Không may bạn lại luôn luôn bám vào những niệm tưởng đau đớn mới và bạn đau đớn vì vô minh (thiếu trí tuệ). Hãy thiền quán về tứ đại thì bạn sẽ không bao giờ còn bị cảm thọ về khổ nữa. Nếu bạn thực hiện những phép thiền quán này bạn sẽ giác ngộ rằng vạn pháp đều vô ngã, bạn liền quăng bỏ và được phần giải thoát. 

Chúng ta đừng bao giờ thỏa mãn với khoái lạc cho đến khi chúng ta đạt đến khoái lạc cao nhất đó là Niết Bàn. Người nào chỉ thỏa mãn với khoái lạc giác quan như loài vật, vị đó chỉ được thỏa mãn phần ít mà thôi. Họ không giác ngộ đạo Phật–chuyển hóa tâm thức từ khoái lạc này đến khoái lạc khác cho đến đạt đến niềm khoái lạc tột đỉnh. Chúng ta không nên thỏa mãn khoái lạc ở mức độ thấp hèn của xác thịt, mà hãy tìm khoái lạc nơi sự đắc chứng xả niệm thanh tịnh, đưa đến Niết Bàn tối thượng. 

Hãy học hạnh kín đáo, luôn luôn nhiếp tâm vào đề mục thiền định. Nhờ liên tục tu tập thiền định như vậy, ánh sáng chân lý sẽ bắt đầu rạng rỡ hào quang–một vĩ nhân độc hành giữa đám đông. Chúng ta hãy nỗ lực sống một mình giữa quần chúng. Và đây là cách thuyết giảng mà không sợ khởi lên sự bực tức. 

Trước khi khởi niệm sự thuyết Pháp, chúng ta suy niệm như thế này: thính chúng là ai? Thính chúng là ngũ uẩn. Và ngũ uẩn là gì? là 5 hợp thể gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức (thân xác, cảm giác, cảm nhận, rung động và ý thức). Những uẩn này đều vô thường, khổ, vô ngã. Còn thính chúng là ai? Thính chúng là sự trống rỗng. Không có thính chúng nào và thính chúng biến mất, tôi cũng trống rỗng, tôi biến mất. Vậy ai ở trong chùa? Không có ai hết. Lúc không có ai trong chùa thì không có ai thuyết giảng cho ai hết. Rụt rè lo sợ là gì? không có ai rụt rè lo sợ cả. Ðây là những cách thuyết giảng mà không có ai bị dao động và đây là cách làm hoan hỷ mọi người. Do quá trình công đức vô lượng mà quý vị đã đạt được hôm nay, cầu mong mọi ước vọng cao đẹp của quý vị được thành tựu viên mãn. Cầu mong tất cả thính chúng sớm đắc quả Niết Bàn tối thượng.

Nguồn: Thiền viện Nam Mô (Hưng-Lộc, Trảng-Bom, Đồng Nai)

 


ĐỨC PHẬT VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ - TT Thích Giải Thông Phần 10

         ĐỨC PHẬT VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ 




(Dịch giả: TT Thích Giải Thông-Phỏng dịch theo bản tiếng Anh The light of truth của Giảng sư LOKANATHA )



                 Tự thắng nhờ hiểu biết sự thật


Phật Giáo là tôn giáo khoa học, và vì là tôn giáo khoa học nên phải biết phân tích. Như quý vị đã biết, trước kia tôi là một nhà hóa học, và ngành dược thuộc khoa học phân tich. Trớ trêu thay từ tri kiến phân tích dược học, tôi tìm đến Phật Giáo vốn là tôn giáo phân tích. Trước kia tôi quen phân tích các tinh thể sunfat đồng, nhưng giờ đây tôi đang phân tích những tinh thể phức tạp của chính mình, bởi vì nếu bạn hiểu chính mình tức là bạn hiểu toàn bộ thế giới. 

Con người là gì? Con người là một hợp thể 5 yếu tố (5 uẩn) xuất phát từ tham ái, bắt rễ nơi vô minh. Tất cả 5 yếu tố đều mang tính chất vô thường, khổ, vô ngã; có nghĩa là nó không có một cái TA kéo dài. Tất cả các pháp (vạn vật) đều tạm bợ ngắn ngủi. Cái gì thoáng qua đều vượt ngoài tầm kiểm soát, và cái gì vượt ngoài tầm kiểm soát của chúng ta phải được gọi là không (sự trống rỗng), không có một cái ta bất diệt. 

Ðây là một khám phá của Ðức Thế Tôn phù hợp với sự khám phá của tâm lý hiện đại rằng đời sống là một sự trôi chảy, tất cả đều biến đổi, không có gì tồn tại mãi trên vũ trụ này. Mỗi thứ dều trôi chảy như một dòng sông. Herakleitos–một đại triết gia đã nói: “mọi sự đều trôi chảy”. Ðức Phật nói: “Các pháp đều vô thường”. 

Con người là một ngọn lửa đang bừng cháy, không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tục. Ðời sống là một tiến trình của sự liên tục trở thành. Sự biến đổì ám chỉ cái chết và tái sinh liên tục. Một ngọn lửa không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tục và con người cũng vậy. Cho dù sức đốt thể chất hay sức nóng tâm linh, con người chỉ là một tiến trình đang bừng cháy. 

a) Cuộc đời là gì? Cuộc đời như giấc mộng. Bằng chứng nào? Quá khứ ở đâu? Ta ở nơi nào? Quá khứ đã qua giống như giấc mộng rỗng không; tương lai thì chưa đến, ngay khi ta nói hiện tại ở đây thì nó đã trở thành quá khứ qua rồi! Thế nên chúng ta không có mặt ở quá khứ, không có mặt ở tương lai. Vậy thì chúng ta có mặt ở đâu? Có phải ở nơi hiện tại ngắn ngủi tạm bợ? Nơi niệm tưởng thoáng qua? Nhưng chắc chắn là không thể có một bản ngã thường hằng trong niệm tưởng thoáng qua. Do đó cuộc đời là không–sự trống rỗng. Và được sống thường hằng vĩnh viễn trong cái không này, đó là đại hồng ân, vì nơi đây tất cả khổ lụy đều vĩnh viễn dứt hẳn. Hãy nhớ rằng con người chỉ là một niệm tưởng thoáng qua và không bao giờ hiện hữu cái ngã hay cái ta nào tồn tại trong niệm tưởng ngắn ngủi đó. Những niệm tưởng đến và đi liên tục, không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tiếp. Nếu một người trong khi đang nằm mơ mà biết mình đang mơ, vị đó hoặc là tỉnh giấc, hoặc là cười thầm hình thái mơ mộng. Giấc mơ xấu không làm vị đó sợ sệt chút nào. 

b)Cuộc đời hoàn toàn là một hiện tượng tâm linh. Giấc mơ là một hiện tượng tâm linh. Do đó đời là một giấc mộng, cuộc đời hoàn toàn là một hiện tượng tâm linh, vì vậy cuộc đời là một giấc mộng. Khi chúng ta đang nằm mộng, đặc biệt nếu giấc mơ xảy ra có tính cách khủng khiếp, chúng ta hoảng sợ và sự đau khổ tâm linh mà ta chịu đựng trong giấc mơ không khác gì sự đau khổ có thật trong tình trạng ta đang sống. Bởi vì cuộc đời hoàn toàn là hiện tượng tâm linh, thế nên chúng ta đau khổ trong giấc mơ do sự kiện chúng ta nghĩ là giấc mơ có thật. Tương tự như vậy, khi một vị Thánh đạt được đỉnh cao tu tập, vị Thánh đó thức tỉnh từ cơn ác mộng của cuộc đời và phấn khởi thấy rằng những gì mình tưởng là đúng, là thật thì chủ yếu chỉ là một giấc mơ hư ảo và khi đã chứng minh được sự kiện này bằng cách phân tích cuộc đời trong những kỳ hạn quá khứ và tương lai. 

Con mắt không bao giờ thỏa mãn khi thấy, cũng vậy, tai không bao giờ thỏa mãn khi nghe. Thấy và nghe với lòng đam mê thì chẳng khác gì uống nước muối và sự khát nước không bao giờ hết khát được. 

Ðức Thế Tôn dạy: thế giới đang cháy. Con mắt đang bừng cháy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đang bừng cháy với ngọn lửa tham, sân, si, sinh, già, bệnh, chết, buồn rầu, kêu ca, than khóc, đau khổ, tuyệt vọng. 

Bây giờ tôi đã giảng đến đây, tôi nguyện nỗ lực hết sức mình để tưới chân lý vào ngọn lửa sáu giác quan của quý vị. Tôi hy vọng lúc bài Pháp này kết thúc, những ngọn lửa từ nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của quý vị sẽ trở nên lạnh nhạt, êm dịu hơn, không những chúng ta tưới thêm nước sự thật mà chúng ta còn học cách để hạn chế nhiên liệu của cái: nhìn không tham, nghe không tham, nếm không tham, xúc chạm không tham, tư duy không tham. Khi nhìn bất cứ vật gì, chúng ta phải luôn luôn phân tích hình sắc của nó để thấy đúng thực tánh của hình sắc đó. Chúng ta phải nhận thức được rằng hình sắc không đáng yêu như ta tưởng đâu. Bởi vì nếu ta phân tích hình sắc gồm 32 phần của thể xác, thì ta mới phát hiện rằng 32 phần này về thực chất không thú vị gì, hoặc ghê tởm và chán ghét. Trong Phật Giáo chúng ta luôn luôn cố gắng phân tích vạn pháp qua những thành phần cấu tạo của chúng để thấy các pháp đúng như thực tướng. Bởi vì thấy các pháp đúng như thực tướng của chúng thì ta mới tháo gỡ được các ràng buộc. Chúng ta nhớ rằng phải phân tích liên tục mới đưa đến trí huệ, chúng ta nên sống cuộc đời liên tục có chánh niệm. Nhờ luôn luôn chánh niệm, tự nhiên sau đó ta sẽ nhìn thấy đúng thực tướng của chúng. Nghĩa là khi ta nhìn sự vật gì, chúng ta phải biết mình đang nhìn gì; khi nói chúng ta phải biết mình đang nói gì; khi dứt ý niệm chúng ta cũng phải nhận thức được việc đó. Khi ăn hay uống cũng phải ý thức được sự kiện đó. Nhờ luôn luôn thực hành chánh niệm, luôn luôn tỉnh giác, chúng ta sẽ không bao giờ bị vọng tưởng và do nhìn đúng thực tướng của các pháp, chúng ta dễ đoạn trừ mọi luyến ái. Chúng ta từ bỏ nô lệ mọi sự vật. Nhờ từ bỏ nô lệ mọi sự vật, chúng ta hưởng được sự giải thoát an vui. Trong Phật Giáo điều này gọi là Niết Bàn–viễn ly các pháp vốn vô thường. Bởi vì các pháp vốn vô thường đều vượt ngoài năng lực của chúng ta, và chúng ta không nên chấp thủ vào bất cứ một luyến ái, ràng buộc nào nó vốn không tùy thuộc vào chúng ta. 

Cần nhớ rằng cái giá của khoái lạc là đau khổ, khoái lạc không thể nào đạt được mà không trả giá; khoái lạc một chút mà đau đớn thì vô củng. Ðức Thế Tôn không muốn khoái lạc hay đau khổ. Ngài muốn con đường hạnh phúc khinh an của hòa bình vĩnh cửu. 

Quý vị có biết 11 sự lợi lạc kỳ diệu của tình thương bao la không? Chúng ta hãy an trú trong tình thương yêu vốn cho ta sự an lạc ngọt ngào. Phật Giáo dạy pháp Giải Thoát qua đời sống phạm hạnh. Có lần Ðức Thế Tôn dạy: “Thực hành lòng từ bi vô lượng đối với chúng sanh sẽ được 11 thiện pháp kỳ diệu đầy lợi lạc”. 

Tôi phải nhắc nhở quý vị biết rằng trong Phật đạo chúng ta có 40 đề mục thiền quán. Trong 40 đề mục này có 4 mục dành cho tâm thái chư thiên, hay còn gọi là tứ vô lượng tâm bao gồm: tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả. 

Nhờ rộng trải vô lượng lòng từ bi, hỷ xả, ta gặt hái được nhiều quả lành. 11 quả lành mà vị đó được hưởng là gì? 

l) Vị đó ngủ trong an lạc. 

2) Vị đó thức trong an lạc. 

3) Vị đó ngủ không thấy ác mộng. 

Tôi tự hỏi không biết có người nào đau khổ vì chứng bệnh mất ngủ. Nếu có, hãy rộng trải lòng từ bi, bạn sẽ được giấc ngủ an lành, bạn sẽ thức dậy an lành, bạn sẽ không gặp ác mộng. Bởi vì khi lòng tràn ngập tình thương, bạn sẽ nhắm mắt êm ái, bạn sẽ mở mắt nhẹ nhàng như búp sen hé nở. 

4) Vị đó được mọi người yêu quý. Vì vậy lòng yêu thương ban cho bạn nhiều thiện hữu cõi người, nhưng hãy nhớ rằng thiện hữu cõi trời còn hữu ích hơn gấp bội so với bạn cõi người tầm thường. Ngạn ngữ có câu: “Thiện hữu cứu mình”. Nếu bạn lành của bạn là người trời, họ chẳng bao giờ ruồng bỏ bạn. Có hai loại bạn, những bạn bè qua quan hệ từ trước, qua quan hệ từ kiếp trước, đó là tình bạn chân thật. Và có những bạn bè thực sự trở thành bạn qua thiền định. Nếu bạn gặp được những thiện hữu cõi trời, họ có năng lực hơn các thiện hữu cõi trần và họ không bao giờ ruồng bỏ bạn. Người giàu thường có nhiều bạn nhưng khi họ mất hết của cải thì họ cũng mất luôn cả bạn hữu. Những người như vậy chỉ là những bạn hữu ngắn ngủi nhất thời. 

5)Vị đó được các dạng phi nhân yêu quý. Lòng yêu thương đem đến cho bạn nhiều thiện hữu phi nhân. Bạn không cần lo sợ về quỷ ma trong bóng đêm nếu bạn rộng mở lòng từ. Bởi vì ngay đến loài ma quỷ cũng trở thành thiện hữu nếu bạn yêu thương mọi người trên toàn cõi vũ trụ bao la này. 

6) Vị đó được chư thiên thần chiếu cố. Lòng yêu thương sẽ đem đến cho bạn nhiều thiện hữu thiên thần. Vậy thì hãy siêng năng tu dưỡng tình bằng hữu thiên thần bằng cách thường xuyên trải lòng yêu thương đến với họ. Các thiện hữu cõi trời có năng lực vô song, có uy lực cứu giúp mạnh mẽ hơn các thiện hữu cõi trần. Ðúng lúc cần họ sẽ đứng gần hộ trì cho bạn. Quả vậy, lòng yêu thương sẽ được toàn thế giới ngưỡng mộ. 

7) Không có lửa, thuốc độc hay gươm dao nào có thể ngăn chặn bước đi của vị đó. Cũng không có bom đạn nào khiến bạn sợ hãi khi bom đạn từ bầu trời rơi xuống nghiền nát Hỡi con người khiếp sợ? Hãy mở rộng lòng thương yêu, bạn sẽ trở thành con người vô úy (không lo sợ). Lòng từ bảo vệ và ban cho bạn cảm giác an bình tịnh lạc. Do luôn luôn mở rộng lòng từ, bạn chỉ giản dị cất tiếng với lòng vui sướng hoan hỷ! Bạn sẽ chẳng bao giờ lo sợ nếu bạn sống trong tình thương yêu vô bờ bến, vì lòng thương yêu sẽ hộ trì cho bạn thoát khỏi mọi nguy hiểm. Nếu bạn luôn luôn sống trong không khí cởi mở từ hòa thì không có sự hãm hạì nào có thể đến với bạn. Tình thương là vật che chở tốt nhất, khí giới tốt nhất và là áo giáp tốt nhất. Tình thương yêu luôn luôn là người đáng yêu quý, bạn còn có thể mỉa mai chế giễu sự lâm nguy nữa là khác, tình thương yêu cũng bảo vệ bạn chống lại tâm tham ái và đam mê. Tình thương yêu là vị hộ pháp tốt đẹp nhất trên trần gian này. 

8) Tâm vị đó sớm được bình thản. Tình thương yêu mau nhiếp tâm. Trong khi tu tập thiền quán, nếu bạn rộng mở tình thương yêu vô lượng thì bạn sẽ rất thành công. Có nhiều người than phiền rằng họ không thể định tâm được, bất cứ khi nào họ khởi sự thiền quán thì tâm của họ đi lạc hướng. Nếu họ tỉnh giác trải rộng lòng từ vô lượng thì tâm họ sẽ dễ dàng chánh niệm vào đề mục. 

9) Diện mạo hảo tướng khinh an. Tình thương yêu đem đến cho bạn vẻ duyên dáng và sắc đẹp vô song. Ðây là nét đẹp thầm kín, toàn hảo nhất trên trần gian. Thế giới tiêu đi mỗi tuần 10 triệu đô la cho phí tổn mỹ phẩm và trang bị sắc đẹp. Sau chiến tranh, hiện nay ta thấy rõ có sự suy thoái khắp nơi. Vì vậy kinh tế nghiêm túc là một trong những vấn đề tái kiến tạo, tiết kiệm. Hãy để dành tiền (nếu bạn có). Những chuyên gia về mỹ phẩm và sắc đẹp đã lố bịch trước sức mạnh hùng tráng cúa tình thương yêu, yếu tố vốn ban cho sắc đẹp chân thật. 

Mỹ phẩm đắt tiền chỉ tạo nên sắc đẹp vay mượn, nó vốn là sự ngụy trang lừa đảo–vọng ngữ. Thế nên chúng ta hãy luôn luôn mở rộng tình thương yêu vô hạn đối vớì nhân loại Một nét duyên dáng vô hình sẽ tỏa quanh chúng ta, ban cho chúng ta dáng điệu nhìn chung là đáng yêu. 

Tình thương yêu không phải là phẩm hạnh kín đáo kỳ diệu sao? Nó ban cho con người dáng vẻ đáng yêu không phải tốn tiền. Chúng ta có được sắc đẹp thực sự mà không tốn tiền là nhờ trải rộng tình thương yêu vô hạn. Bởi vì sắc đẹp chân thực là gì? Ðó là sự duyên dáng. Vẻ đẹp duyên dáng chỉ xuất phát từ tình thương yêu vô hạn. Ở các nước Tây phương người ta gọi là vẻ quyến rũ. Ở các nước Ðông phương người ta gọi là vẻ duyên dáng. Vẻ đẹp duyên dáng là người tiêu biểu hấp dẫn cao cả nhất, dù nó là một phương thuật bán hàng hay một phương diện đời sống nào khác, nếu người nào có lòng quảng đại về tình thương yêu, vị đó sẽ lôi cuốn được khách hàng, vị đó sẽ hấp dẫn bạn bè, vị đó sẽ thu hút mọi người. 

Nên nhớ rằng con đường thượng sách nhất để trở nên đẹp đẽ không phải chỉ sử dụng mỹ phẩm đóng sẵn của Hollywood mà chỉ đơn thuần rộng trải tình thương yêu vô hạn. Lòng từ bi đó phải thấm nhuần toàn khắp vũ trụ, bởi vì trong Ðạo Phật không có biên giới, không có địa phận nào cho tình thương yêu cả. Tình thương là vô tận. Nó phải xuyên suốt toàn cầu. Tình thương yêu là vô lượng. Nó có một năng lực bất tận. Chúng ta tin những thế giới trùng điệp trong Phật Giáo. Những thế giới đều lên đến con số bao la (nhờ thiên văn) và tình yêu thương cũng phải như không gian bất tận. Nó phải hướng về phía đông, tây, nam, bắc, trên, dưới và chung quanh. Chúng ta thương yêu không phải chỉ có loài người thôi mà còn thương yêu cả loài vật, loài thực vật nữa. Mỗi ngọn cỏ phải tràn đầy lòng từ vô lượng. Chúng ta yêu những dòng sông, những quả núi và khắp bầu trời. Tất cả sự sống là thực vật, khoáng vật, và sự sống động vật. Trên toàn cầu này không có gì là không đang sống. Tất cả đời sống là một, và vì vậy chúng ta phải thương yêu toàn cầu, bất cứ ở đâu cũng không có một kỳ thị phân biệt nào. Vẻ đẹp bên trong chiến thắng vẻ đẹp thô kệch xấu xí bên ngoài và làm con người lôi cuốn được kẻ khác. Vẻ duyên dáng đó có thể đạt được bằng sự thực hành lòng từ vô biên, và lòng từ đó phải được tu tập ngày đêm không ngừng nghỉ. 

10) Vị đó chết thanh thản. Người ta thường chết một cách khiếp sợ. Họ sợ chết, đôi khi họ bị dằn vặt khổ sở hết sức kinh khủng. Trong kinh Phật được kể rằng khi một người sắp tái sinh vào cảnh khổ ngục, ngay trước khi chết, vị đó thấy ngọn lửa “hỏa ngục” và bạn có thể tưởng tượng những cảm giác của người sắp chết phải bị ra sao không? Ngay trước khi chết vị đó trông thấy những ngọn lửa khổ hình phóng lên, bản thân không thể nào an lạc; nhưng nếu vị đó có thực hành thiền định về lòng từ quảng đại, đương nhiên vị đó sẽ không còn khiếp sợ. Lòng từ làm cho bạn sống hạnh phúc và chết hạnh phúc. Bạn còn muốn gì nữa. Tình thương yêu là quý hóa nhất và cao thượng nhất! Nó làm cho bạn ngủ an lạc, chết an lạc. Hai điều không giống nhau sao? Ban đêm đi ngủ, điều này giống như chết. Khi thức dậy, tươi tỉnh lạỉ, bạn như được tái sinh. 

11) Nếu bạn không chứng đạt Niết Bàn trong đời này, bạn sẽ được tái sanh vào cảnh trời. Lòng từ ái đưa đến sự tỉnh thức và an vui. Hai cảnh này không phải giống nhau sao? 

Lòng từ biến bạn thành một vị thần ngay bây giờ trở đi. Lòng từ ban cho bạn năng lực vô biên, vượt hơn năng lực của mình và của người khác. Lòng từ khiến bạn thành một vị Phật tối thượng–giống như một bà mẹ sẵn sàng hy sinh đời mình cho đứa con duy nhất. Vì vậy ta nên thường xuyên ban phát lòng từ của mình đối với tất cả chúng sinh trên cõi đời này. Ðây là giáo huấn cao thượng của Ðức Thế Tôn. Hận thù không thể dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu toàn thế giới đều quy ngưỡng Ðức Phật thì chiến tranh sẽ không còn xảy ra nữa. Ðạo đức cộng tình thương đưa đến hòa bình hạnh phúc. Tham ái đi đôi với hận thù gây ra chiến tranh và nghèo khổ. Ðại từ bi là mẹ của mọi đức hạnh. Mong sao chúng sanh trên toàn cầu giữ mãi tâm niệm nhân ái này. 

Chúng ta cố gắng gởi đến quý vị một bài Pháp nữa của Ðức Phật. Bởi vì nếu chúng ta muốn hiểu Phật Giáo một cách đúng đắn thì chúng ta phải thường xuyên tìm hiểu từ đầu nguồn–chính là Ðức Phật. Khi nước xuất phát từ đầu nguồn, nó tinh khiết, nhưng khi nước chảy xuống mặt đất nó trở nên bất tịnh. Vì vậy chúng ta đứng bao giờ phí sức học Phật từ những sách do nhiều tác giả viết ra mà phải luôn luôn nghiên cứu Phật học ngay từ những lời dạy của chính Ðức Phật. Giờ đây tôi sẽ gởi đến quý thiện hữu một chút pháp vị nữa từ một bài giảng sâu sắc của Ðức Thế Tôn. Trong Kinh Trung A Hàm, Ðức Phật dạy: có 6 giác quan bên trong và 6 nhóm ý thức, 6 nhóm xúc (tiếp nhận), 6 nhóm thọ (cảm giác), 6 nhóm ái (yêu thích) tạo thành 36 loại tất cả. Như tôi đã nói đạo Phật là khoa học giải thoát, là khoa học phân tích nên mọi thứ phải được phân xét lý giải. 

Chúng ta phải dùng mắt để nhìn đúng tiến trình của cái thấy là gì. Chúng ta có mắt, có sắc thể, con mắt thêm vào hình thể liền khởi lên cái biết thấy, căn (mắt), trần (hình), thức (ý) chạm vào nhau; phát sinh xúc (tiếp xúc); rồi xúc phát sinh thọ (cảm giác) và thọ phát sinh ái (yêu thích). Tương tự như vậy xảy ra khi ta nghe, tai thêm vào âm thanh phát khởi cái biết của tai. Rồi tai, âm thanh và cái biết nghe chạm vào nhau tạo nên xúc. Rồi xúc phát sinh thọ, rồi thọ phát sinh ái. Tương tự như vậy xảy ra khi chúng ta ngửi, nếm, chạm và suy nghĩ. 

Ðức Phật dạy: sau khi phân tích 36 pháp, chúng ta thấy rằng không có cái Ta nào bất diệt, bất biến bên trong 36 pháp này. Bởi vì nếu có người nói rằng con mắt là “ta”, điều này không chấp nhận được, vì sự sinh diệt của mắt là hiển nhiên, con mắt là vô thường (tạm bợ), và vì nó vô thường nên chúng ta không thể gọi nó là “ta”, bản ngã của ta, chúng ta không thể gọi hình thể là ta, chúng ta không thể gọi cái biết thấy là ta hoặc xúc thọ hay ái là ta. Khi phân tích rằng các hiện hữu đều có sự sinh diệt của chúng, ta mới đi đến kết luận rằng cái ta khởi lên rồi biến mất và vì vậy nói rằng con mắt là “ta” đều không chấp nhận được. Như vậy con mắt là vô ngã. Biện chứng tương tự áp dụng cho các hình thể. Hình thể vốn vô thường và xúc, thọ, ái tất cả đều vô thường, vì thế cái “ta” không thể tìm thấy được trong bất cứ một giác quan nào hoặc không tìm thấy được trong một pháp nào thuộc 36 pháp đã nói. Vạn pháp đều vô thường. Do vậy không có cái ta nào bất biến trong cái thường chuyển cả. 

Như tôi đã giảng ngay từ đầu bài pháp rằng chúng ta chỉ ở trong những niệm tưởng tạm bợ thoáng qua, và vì những niệm tưởng cứ mãi thoáng qua nên chúng ta cứ mãi tạm thời không cố định, không có cái ta bất biến nơi con người. Con đường đưa đến nguồn gốc của ngã kiến–cái nhìn cá tính, vốn coi như của mình. Cái này là tôi hoặc cái này là chính tôi, hoặc là mắt, hình sắc, cái biết thấy, hay xúc, thọ, ái, hoặc tương tự coi cái nghe và các giác quan khác là phụ. Vì vậy bạn thấy đó, cảm giác của cái ta khởi lên qua tập quán tư duy bất thiện từ quá khứ vô tận. Chúng ta vẫn cứ suy nghĩ như vầy: cái này thuộc về tôi, cái này là tôi, cái này là chính tôi. Nhưng từ đây trở đi, chúng ta khởi sự tư duy ngược lại nếu chúng ta thường nói với sự cân nhắc mỗi và mọi điều mà chúng ta thấy hay nghe, ngửi hay nếm, hay chạm, hay suy nghĩ rằng: “Ðây không thuộc về tôi, đây không phải là tôi đây không phải là bản ngã của tôi; như thế bạn mới quân bình được tập quán suy nghĩ xấu trước kia và cái nhìn cá tính sẽ được hóa giải. Chúng ta không bao giờ tin về bản ngã, và đó chính là sự giác ngộ tối thượng, sự tỉnh thức siêu việt, đó là Niết Bàn. Con đường đưa đến tiêu trừ cái nhìn cá tính là đừng coi nó là của mình... dù là mắt, là tai, cái nghe hay bất cứ cái nào trong 6 giác quan khác hay những phần hỗ trợ cho chúng. Người đệ tử thực học của Ðức Phật trở nên nhàm chán cảnh đời và các giác quan khác nên được giải thoát. Ðối với người đệ tử đó, nhờ được giải thoát nên được tri kiến giải thoát, triệt để tin tuởng rằng đây là kiếp sống cuối cùng, rằng vị đó đã sống đời phạm hạnh thanh cao, rằng Phật sự đã làm xong và giờ đây không còn nữa những gì đã làm. Ðức Thế Tôn dạy như vậy. 

Khi bàì pháp vừa thuyết xong, tâm của 60 vị Sa Môn đều giải thoát mọi kiết sử. Nói cách khác nhờ bài pháp độc nhất đó mà 60 vị Sa Môn chứng quả A La Hán tối thượng. Họ tiêu trừ các lậu hoặc như dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu v.v... Họ trở thành bậc tỉnh thức, Ðấng Toàn Giác. Họ chứng đắc Niết Bàn tối thượng chính ngay cuộc đời này. Trong Phật Giáo không cần phải đợi chết mới đạt đến mục đích, mà người ta có thể đạt Niết Bàn tối thượng ngay tại đây yà bây giờ. Ngay lúc tôi đang thuyết pháp, quý vị có thể đoạn diệt được tâm tham, tâm sân, tâm si và đạt được trạng thái vô tham, vô sân, vô si ở đỉnh cao gọi là Niết Bàn, niềm hạnh phúc cao tột nhất. Cầu mong tất cả quý vị càng sớm càng tốt đạt được cảnh giới an lạc tối thượng. 

Trước khi kết thúc, tôi muốn chấn chỉnh một số quan niệm về đạo Phật, vì nơi đây còn có một số người không phải là Phật tử. Tôi sẽ cố gợi lên một ý tưởng rõ ràng về Phật Giáo là gì. Có lần khi tôi còn ở trong một trại tập trung, tôi nhớ một người bạn cùng bị giam đã cố giải thích về triết học Phật Giáo cho một thính giả là tôi. Ông là một linh mục Thiên Chúa La Mã. ông ta giảng về Phật Giáo và tôi là một hội viên của thính chúng. Một người không phải Phật tử lại đi giảng Ðạo Phật cho người Phật tử nghe–vì tôi muốn nghe những gì ông ta trình bày. Tôi thấy rằng có vài điểm tuyệt đối không đúng. Bởi vì tôi vốn là một chuyên gia Phật tử, lẽ dĩ nhiên Phật Giáo là đề tài của tôi. Chúng tôi không thể kỳ vọng một thành viên của một tôn giáo nào khác làm chuyên gia cho Phật Giáo. 

Tôi thấy có vài sai lầm và đây là một số nhầm lẫn hiện đang phổ biến có liên quan Phật Giáo–tôn giáo mà tôi sẽ chấn chỉnh tốt đẹp hầu giúp người ngoại đạo có thể hiểu một cách đúng đắn Phật Giáo là gì. Trước tiên, vị thượng nhân đó nói rằng Phật Giáo không phải là tôn giáo mà Phật Giáo chỉ là một triết lý. Tôi phải chứng minh rằng Phật Giáo cũng được gọi là tôn giáo, bởi vì, Tôn giáo là gì? Tôn giáo là phương pháp diệt trừ đau khổ, bởi vì nếu không có đau khổ trên thế gian này thì tôn giáo sẽ hóa ra dư thừa. Chúng ta có tôn giáo chỉ vì trần gian này có đau khổ. Tôn giáo là phương tiện để đi đến cứu cánh. Nó ban cho sự an ủi trước mọi bất trắc cuộc đời, nó cho ta sự trầm tĩnh an lạc. Phật Giáo có Bát Chánh Ðạo–con đường tám điều chân chính, diệt khổ. Do vậy Phật Giáo là tôn giáo tuyệt vời, nó tạo ra các bậc A La Hán, những người tự mình thoát ly mọi đau khổ, vì giáo pháp của Phật đoạn trú mọi đau khổ. Phật Giáo chắc chắn được gắn cho thuật ngữ “Tôn Giáo”. Bởi vì theo định nghĩa của chúng tôi thì tôn giáo là phương pháp diệt trừ đau khổ. Dĩ nhiên có nhiều người định nghĩa về tôn giáo một cách khác nữa. Họ nói tôn giáo là phụng thờ Trời (Thượng Ðế), nhưng Phật tử chúng tôi cũng phụng thờ trời, bởi vì chúng tôi cho rằng Trời là một đấng toàn hảo. Bất cứ ai toàn hảo đều là trời, bởi vì không có trời nào hơn đấng toàn hảo. Theo như người Phật tử chúng tôi thì bất luận ai đạt được sự tận diệt tuyệt đối về tham, sân, si, đố kỵ, nghi ngờ, kiêu mạn, vị đó là Trời. Bởi vì không có trời nào cao hơn chân lý. Không có trởi nào cao hơn sự toàn hảo. Nếu có vị trời nào cao hơn sự toàn hảo thì vị đó không phải toàn hảo và vị đó không còn là trời nữa. Thế nên trời là đấng toàn hảo. Chúng tôi coi Ðức Phật là Ðấng Toàn Hảo tuyệt đối sau khi đạt được viên mãn toàn hảo. Chúng tôi gọi Ngài là vị Trời. Ngài không còn một tì vết nào về tham dục, dù Ngài sinh ra là một con người. Sau khi thành đạo dưới cội Bồ Ðề lúc 35 tuổi Ngài hoàn toàn đoạn trừ tham ái, sân hận và si mê v.v... Ngài trở thành: Ðấng Toàn Hảo, một vị Phật, Ðấng Toàn Giác. Vốn toàn hảo nên chắc chắn Ngài được tôn hiệu là Trời, bởi vì Ngài là môt vị Trời thanh tịnh. Ngài là Thiên Thượng Thiên có nghĩa là Trời của các vị Trời. 

Phật tử chúng tôi phụng thờ Trời vậy thì Phật Giáo là một tôn giáo chứ không phải chỉ thuần túy là một triết lý, không còn ngờ gì nữa đó là một triết lý cao siêu nhất từng được một chúng sanh toàn hảo khai sáng nhưng Phật Giáo cũng là một tôn giáo, chúng ta có thể gọi Phật Giáo là một tôn giáo triết lý. 

Điểm lầm lỗi kế tiếp mà vị thượng nhân đưa ra cho rằng Niết Bàn là một giấc ngủ không mơ. Nhưng chúng tôi nói Niết Bàn chẳng phải là một giấc ngủ không mơ. Niết Bàn là sự tỉnh ngộ cao độ. Như tôi đã giải thích trước kia rằng cuộc đời là một giấc mộng, chỉ khi nào chúng ta bừng tỉnh khỏi cuộc đời mộng ảo này thì ta được tôn hiệu là Phật–bậc Giác Ngộ tối thượng. Sống là mộng nhưng đạt được Niết Bàn là tỉnh giấc mơ cuộc đời. Mục đích của Phật Giáo là làm cho chúng ta thức tỉnh trước cuộc đời mộng ảo, làm cho chúng ta luôn luôn là người tỉnh giác. Vì vậy Niết Bàn không phải là một giấc ngủ không mơ mà là một trạng thái tỉnh thức tối thượng, trạng thái mà các bậc Thánh hưởng được ngay đây và bây giờ chứ không phải sau khi chết mới đạt được Nếu tôi nhớ không lầm thì ở những tôn giáo khác, chúng ta phải chết trước đã rồi mới đạt được phước lành. Trong Phật Giáo không cần phải đợi chết, bởi vì Ðức Phật lúc 35 tuổi, Ngài đã tận hưởng phước lạc cao tột, có thể thực hiện trên cõi đời này, Ngài chứng vô thượng Niết Bàn, sự toàn hảo tối thượng. Niết Bàn là sự tỉnh giác cao tột. Toàn thế giới như đang ngủ, đang mơ, mơ trong cơn ác mộng, người ta coi giấc mộng trống rỗng này là thật. Do vậy mà toàn thế giới này đau khổ. Vô minh–tức sự ngu si là nỗi đau khổ nghiêm trọng nhất. Trí tuệ là hạnh phúc cao đẹp nhất. Niết Bàn không phải là giấc ngủ không mơ. Niết Bàn không phải là hư vô hay không hiện hữu. Niết Bàn là thực tại của chân lý trường tồn tối thượng. Thế giới không thực, là hư ảo vì vạn pháp đều tạm bợ và biến đổi. Vắng mặt trần gian hư ảo đó là chân Niết Bàn tối thượng hay là trạng thái tỉnh thức siêu đẳng. Tôi vẫn nói rằng toàn thế giới đang bốc cháy. Niết Bàn là trạng thái tỉnh giác, trạng thái tươi mát, nơi không còn những ngọn lửa của 6 giác quan. Có sự khác biệt giữa Ðức Phật và những đệ tử của Ngài đối với những cá nhân tầm thường. Vì những vị phàm phu khi nhìn sự vật với lòng khát ái, đam mê và khi nghe với lòng khát ái, đam mê, họ đang bị đốt cháy khắp nơi. Trái lại, Ðức Phật nhìn sự vật với tâm ly dục, nghe với tâm ly dục, ngửi, nếm, chạm, nghĩ đều buông xả, không một chút đam mê, lạc thú. 

Thêm một điểm sai lầm nữa mà vị linh mục quý kính đã nói rằng Phật Giáo là tiêu cực. Không đúng như vậy. Bởi vì đạo Phật ban cho trái quả tối thượng nhất ngay ở đây và bây giờ, làm sao gán cho đạo Phật là tiêu cực được? mà đạo Phật phải là một tôn giáo lạc quan cao siêu nhất bởi vì đạo Phật giải thoát con người khỏi đau khổ ngay ở đây và trong tình trạng đang sống bây giờ, nhưng Ðức Phật không ngừng ở đấy. Ngài chỉ đạy con đường thoát khổ. Nói một cách khác, Ngài chữa lành bệnh nhân, ban cho họ hạnh phúc bất tận và vì vậy Ðức Phật được gọi là vị Y sĩ vĩ đại nhất trần gian này, bởi vì Ngài giải thoát nỗi thống khổ của con người ngay đây và bây giờ, và vì con người được chữa lành mọi chứng bệnh đau khổ về thân tâm, Phật Giáo quả là một tôn giáo lạc quan nhất chứ không phải bi quan như vị linh mục đã ngộ nhận. 

Như Ðức Thế Tôn đã dạy: “Này các Tỳ Kheo, giống như nước trong các đại dương chỉ có một vị, đó là vị của muối. Cũng vậy, Giáo Pháp của ta cũng là một vị, đó là vị giải thoát. Và vì Phật Giáo là đạo của giải thoát, làm sao ta có thể gắn cho Giáo Pháp giải thoát là tiêu cực được? Một cách đoan chắc, nếu một bệnh nhân được chữa lành chứng bệnh sốt rét, bệnh nhân không bao giờ dám nói thuốc điều trị của Bác sĩ chữa bệnh cho anh ta là tiêu cực và bệnh nhân sẽ nói đó là thuốc hay nhất đã chữa lành bệnh cho mình. Cũng tương tự như vậy, thuốc Bát Chánh Ðạo chừa cho con người hết đau khổ, đó là thần dược lạc quan nhất bởi vì nó chữa lành bệnh cho con người ngay tại đây và bây giờ, đồng thời ban cho vị đó niềm hạnh phúc cao tột nhất. 

Phật Giáo có 4 chân lý cao thượng. Chân lý thứ tư hướng dẫn chúng ta con đường thoát khổ, an nhập hạnh phúc của Niết Bàn tối thượng trường cửu. Do vậy Phật Giáo là tôn giáo lạc quan nhất trên thế giới. Phật Pháp dạy rằng sự lạc thú là gốc rễ của khổ đau, bởi vì nếu bạn vướng mắc vào khoái lạc của mắt thì chẳng khác gì bạn đang cố uống nước muối, bạn càng uống càng thấy khát, càng nhìn bạn càng muốn nhìn, càng nghe bạn càng muốn nghe. Không sao chấm dứt được tiến trình này. Trên trần gian đây không bao giờ có một cá thể độc nhất nào nhờ vui hưởng khoái lạc của 6 giác quan mà đạt được hạnh phúc trường cửu. Vị đó chỉ đạt được sự khao khát triền miên, bởi vì càng đeo dính vào khoái lạc 6 giác quan thì bạn càng trở nên khao khát mãnh liệt. Ðiều duy nhất mà con người đạt được qua sự luyến ái 6 giác quan là sự khao khát và đánh mất Niết Bàn. Vì vậy phần đông chúng ta bị thất bại do nô lệ vào 6 giác quan. Nay chúng ta thử làm ngược lại bằng kinh nghiệm từ bỏ khoái lạc từ 6 giác quan. Sự từ bỏ như Ðức Phật đã làm. Hãy dũng cảm hình thành một chứng nghiệm đối nghich, bạn sẽ thấy lòng khao khát đoạn diệt và bạn sẽ hưởng được niềm an lạc vĩnh cửu, bởi vì ngọn lửa tham dục đã tàn rụi, trạng thái tươi mát sẽ có mặt. Nơi đây ngọn lửa không thể nào nhóm lên được lần nữa, không có diêm, không có nhiên liệu để tái phát ngọn lửa mới, con người không còn tái sinh trong lục đạo luân hồi nữa. Cũng có một ngộ nhận nữa, vị linh mục chỉ có giải thích 3 chân lý đầu mà không đề cập đến chân lý thứ tư là Ðạo đế Bát Chánh Ðạo–trong Phật Giáo là chân lý quan yếu nhất cần phải lưu tâm, đó chính là phương thuốc đưa ta đến Niết Bàn tối thượng. 


Nguồn: Thiền viện Nam Mô (Hưng-Lộc, Trảng-Bom, Đồng Nai)