ĐỨC PHẬT VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ
(Dịch giả: TT Thích Giải Thông-Phỏng dịch theo bản tiếng Anh The light of truth của Giảng sư LOKANATHA )
Tự thắng nhờ hiểu biết sự thật
Phật Giáo là tôn giáo khoa học, và vì là tôn giáo khoa học nên phải biết phân tích. Như quý vị đã biết, trước kia tôi là một nhà hóa học, và ngành dược thuộc khoa học phân tich. Trớ trêu thay từ tri kiến phân tích dược học, tôi tìm đến Phật Giáo vốn là tôn giáo phân tích. Trước kia tôi quen phân tích các tinh thể sunfat đồng, nhưng giờ đây tôi đang phân tích những tinh thể phức tạp của chính mình, bởi vì nếu bạn hiểu chính mình tức là bạn hiểu toàn bộ thế giới.
Con người là gì? Con người là một hợp thể 5 yếu tố (5 uẩn) xuất phát từ tham ái, bắt rễ nơi vô minh. Tất cả 5 yếu tố đều mang tính chất vô thường, khổ, vô ngã; có nghĩa là nó không có một cái TA kéo dài. Tất cả các pháp (vạn vật) đều tạm bợ ngắn ngủi. Cái gì thoáng qua đều vượt ngoài tầm kiểm soát, và cái gì vượt ngoài tầm kiểm soát của chúng ta phải được gọi là không (sự trống rỗng), không có một cái ta bất diệt.
Con người là gì? Con người là một hợp thể 5 yếu tố (5 uẩn) xuất phát từ tham ái, bắt rễ nơi vô minh. Tất cả 5 yếu tố đều mang tính chất vô thường, khổ, vô ngã; có nghĩa là nó không có một cái TA kéo dài. Tất cả các pháp (vạn vật) đều tạm bợ ngắn ngủi. Cái gì thoáng qua đều vượt ngoài tầm kiểm soát, và cái gì vượt ngoài tầm kiểm soát của chúng ta phải được gọi là không (sự trống rỗng), không có một cái ta bất diệt.
Ðây là một khám phá của Ðức Thế Tôn phù hợp với sự khám phá của tâm lý hiện đại rằng đời sống là một sự trôi chảy, tất cả đều biến đổi, không có gì tồn tại mãi trên vũ trụ này. Mỗi thứ dều trôi chảy như một dòng sông. Herakleitos–một đại triết gia đã nói: “mọi sự đều trôi chảy”. Ðức Phật nói: “Các pháp đều vô thường”.
Con người là một ngọn lửa đang bừng cháy, không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tục. Ðời sống là một tiến trình của sự liên tục trở thành. Sự biến đổì ám chỉ cái chết và tái sinh liên tục. Một ngọn lửa không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tục và con người cũng vậy. Cho dù sức đốt thể chất hay sức nóng tâm linh, con người chỉ là một tiến trình đang bừng cháy.
a) Cuộc đời là gì? Cuộc đời như giấc mộng. Bằng chứng nào? Quá khứ ở đâu? Ta ở nơi nào? Quá khứ đã qua giống như giấc mộng rỗng không; tương lai thì chưa đến, ngay khi ta nói hiện tại ở đây thì nó đã trở thành quá khứ qua rồi! Thế nên chúng ta không có mặt ở quá khứ, không có mặt ở tương lai. Vậy thì chúng ta có mặt ở đâu? Có phải ở nơi hiện tại ngắn ngủi tạm bợ? Nơi niệm tưởng thoáng qua? Nhưng chắc chắn là không thể có một bản ngã thường hằng trong niệm tưởng thoáng qua. Do đó cuộc đời là không–sự trống rỗng. Và được sống thường hằng vĩnh viễn trong cái không này, đó là đại hồng ân, vì nơi đây tất cả khổ lụy đều vĩnh viễn dứt hẳn. Hãy nhớ rằng con người chỉ là một niệm tưởng thoáng qua và không bao giờ hiện hữu cái ngã hay cái ta nào tồn tại trong niệm tưởng ngắn ngủi đó. Những niệm tưởng đến và đi liên tục, không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tiếp. Nếu một người trong khi đang nằm mơ mà biết mình đang mơ, vị đó hoặc là tỉnh giấc, hoặc là cười thầm hình thái mơ mộng. Giấc mơ xấu không làm vị đó sợ sệt chút nào.
b)Cuộc đời hoàn toàn là một hiện tượng tâm linh. Giấc mơ là một hiện tượng tâm linh. Do đó đời là một giấc mộng, cuộc đời hoàn toàn là một hiện tượng tâm linh, vì vậy cuộc đời là một giấc mộng. Khi chúng ta đang nằm mộng, đặc biệt nếu giấc mơ xảy ra có tính cách khủng khiếp, chúng ta hoảng sợ và sự đau khổ tâm linh mà ta chịu đựng trong giấc mơ không khác gì sự đau khổ có thật trong tình trạng ta đang sống. Bởi vì cuộc đời hoàn toàn là hiện tượng tâm linh, thế nên chúng ta đau khổ trong giấc mơ do sự kiện chúng ta nghĩ là giấc mơ có thật. Tương tự như vậy, khi một vị Thánh đạt được đỉnh cao tu tập, vị Thánh đó thức tỉnh từ cơn ác mộng của cuộc đời và phấn khởi thấy rằng những gì mình tưởng là đúng, là thật thì chủ yếu chỉ là một giấc mơ hư ảo và khi đã chứng minh được sự kiện này bằng cách phân tích cuộc đời trong những kỳ hạn quá khứ và tương lai.
Con mắt không bao giờ thỏa mãn khi thấy, cũng vậy, tai không bao giờ thỏa mãn khi nghe. Thấy và nghe với lòng đam mê thì chẳng khác gì uống nước muối và sự khát nước không bao giờ hết khát được.
Ðức Thế Tôn dạy: thế giới đang cháy. Con mắt đang bừng cháy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đang bừng cháy với ngọn lửa tham, sân, si, sinh, già, bệnh, chết, buồn rầu, kêu ca, than khóc, đau khổ, tuyệt vọng.
Bây giờ tôi đã giảng đến đây, tôi nguyện nỗ lực hết sức mình để tưới chân lý vào ngọn lửa sáu giác quan của quý vị. Tôi hy vọng lúc bài Pháp này kết thúc, những ngọn lửa từ nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của quý vị sẽ trở nên lạnh nhạt, êm dịu hơn, không những chúng ta tưới thêm nước sự thật mà chúng ta còn học cách để hạn chế nhiên liệu của cái: nhìn không tham, nghe không tham, nếm không tham, xúc chạm không tham, tư duy không tham. Khi nhìn bất cứ vật gì, chúng ta phải luôn luôn phân tích hình sắc của nó để thấy đúng thực tánh của hình sắc đó. Chúng ta phải nhận thức được rằng hình sắc không đáng yêu như ta tưởng đâu. Bởi vì nếu ta phân tích hình sắc gồm 32 phần của thể xác, thì ta mới phát hiện rằng 32 phần này về thực chất không thú vị gì, hoặc ghê tởm và chán ghét. Trong Phật Giáo chúng ta luôn luôn cố gắng phân tích vạn pháp qua những thành phần cấu tạo của chúng để thấy các pháp đúng như thực tướng. Bởi vì thấy các pháp đúng như thực tướng của chúng thì ta mới tháo gỡ được các ràng buộc. Chúng ta nhớ rằng phải phân tích liên tục mới đưa đến trí huệ, chúng ta nên sống cuộc đời liên tục có chánh niệm. Nhờ luôn luôn chánh niệm, tự nhiên sau đó ta sẽ nhìn thấy đúng thực tướng của chúng. Nghĩa là khi ta nhìn sự vật gì, chúng ta phải biết mình đang nhìn gì; khi nói chúng ta phải biết mình đang nói gì; khi dứt ý niệm chúng ta cũng phải nhận thức được việc đó. Khi ăn hay uống cũng phải ý thức được sự kiện đó. Nhờ luôn luôn thực hành chánh niệm, luôn luôn tỉnh giác, chúng ta sẽ không bao giờ bị vọng tưởng và do nhìn đúng thực tướng của các pháp, chúng ta dễ đoạn trừ mọi luyến ái. Chúng ta từ bỏ nô lệ mọi sự vật. Nhờ từ bỏ nô lệ mọi sự vật, chúng ta hưởng được sự giải thoát an vui. Trong Phật Giáo điều này gọi là Niết Bàn–viễn ly các pháp vốn vô thường. Bởi vì các pháp vốn vô thường đều vượt ngoài năng lực của chúng ta, và chúng ta không nên chấp thủ vào bất cứ một luyến ái, ràng buộc nào nó vốn không tùy thuộc vào chúng ta.
Cần nhớ rằng cái giá của khoái lạc là đau khổ, khoái lạc không thể nào đạt được mà không trả giá; khoái lạc một chút mà đau đớn thì vô củng. Ðức Thế Tôn không muốn khoái lạc hay đau khổ. Ngài muốn con đường hạnh phúc khinh an của hòa bình vĩnh cửu.
Quý vị có biết 11 sự lợi lạc kỳ diệu của tình thương bao la không? Chúng ta hãy an trú trong tình thương yêu vốn cho ta sự an lạc ngọt ngào. Phật Giáo dạy pháp Giải Thoát qua đời sống phạm hạnh. Có lần Ðức Thế Tôn dạy: “Thực hành lòng từ bi vô lượng đối với chúng sanh sẽ được 11 thiện pháp kỳ diệu đầy lợi lạc”.
Tôi phải nhắc nhở quý vị biết rằng trong Phật đạo chúng ta có 40 đề mục thiền quán. Trong 40 đề mục này có 4 mục dành cho tâm thái chư thiên, hay còn gọi là tứ vô lượng tâm bao gồm: tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả.
Nhờ rộng trải vô lượng lòng từ bi, hỷ xả, ta gặt hái được nhiều quả lành. 11 quả lành mà vị đó được hưởng là gì?
l) Vị đó ngủ trong an lạc.
2) Vị đó thức trong an lạc.
3) Vị đó ngủ không thấy ác mộng.
Tôi tự hỏi không biết có người nào đau khổ vì chứng bệnh mất ngủ. Nếu có, hãy rộng trải lòng từ bi, bạn sẽ được giấc ngủ an lành, bạn sẽ thức dậy an lành, bạn sẽ không gặp ác mộng. Bởi vì khi lòng tràn ngập tình thương, bạn sẽ nhắm mắt êm ái, bạn sẽ mở mắt nhẹ nhàng như búp sen hé nở.
4) Vị đó được mọi người yêu quý. Vì vậy lòng yêu thương ban cho bạn nhiều thiện hữu cõi người, nhưng hãy nhớ rằng thiện hữu cõi trời còn hữu ích hơn gấp bội so với bạn cõi người tầm thường. Ngạn ngữ có câu: “Thiện hữu cứu mình”. Nếu bạn lành của bạn là người trời, họ chẳng bao giờ ruồng bỏ bạn. Có hai loại bạn, những bạn bè qua quan hệ từ trước, qua quan hệ từ kiếp trước, đó là tình bạn chân thật. Và có những bạn bè thực sự trở thành bạn qua thiền định. Nếu bạn gặp được những thiện hữu cõi trời, họ có năng lực hơn các thiện hữu cõi trần và họ không bao giờ ruồng bỏ bạn. Người giàu thường có nhiều bạn nhưng khi họ mất hết của cải thì họ cũng mất luôn cả bạn hữu. Những người như vậy chỉ là những bạn hữu ngắn ngủi nhất thời.
5)Vị đó được các dạng phi nhân yêu quý. Lòng yêu thương đem đến cho bạn nhiều thiện hữu phi nhân. Bạn không cần lo sợ về quỷ ma trong bóng đêm nếu bạn rộng mở lòng từ. Bởi vì ngay đến loài ma quỷ cũng trở thành thiện hữu nếu bạn yêu thương mọi người trên toàn cõi vũ trụ bao la này.
6) Vị đó được chư thiên thần chiếu cố. Lòng yêu thương sẽ đem đến cho bạn nhiều thiện hữu thiên thần. Vậy thì hãy siêng năng tu dưỡng tình bằng hữu thiên thần bằng cách thường xuyên trải lòng yêu thương đến với họ. Các thiện hữu cõi trời có năng lực vô song, có uy lực cứu giúp mạnh mẽ hơn các thiện hữu cõi trần. Ðúng lúc cần họ sẽ đứng gần hộ trì cho bạn. Quả vậy, lòng yêu thương sẽ được toàn thế giới ngưỡng mộ.
7) Không có lửa, thuốc độc hay gươm dao nào có thể ngăn chặn bước đi của vị đó. Cũng không có bom đạn nào khiến bạn sợ hãi khi bom đạn từ bầu trời rơi xuống nghiền nát Hỡi con người khiếp sợ? Hãy mở rộng lòng thương yêu, bạn sẽ trở thành con người vô úy (không lo sợ). Lòng từ bảo vệ và ban cho bạn cảm giác an bình tịnh lạc. Do luôn luôn mở rộng lòng từ, bạn chỉ giản dị cất tiếng với lòng vui sướng hoan hỷ! Bạn sẽ chẳng bao giờ lo sợ nếu bạn sống trong tình thương yêu vô bờ bến, vì lòng thương yêu sẽ hộ trì cho bạn thoát khỏi mọi nguy hiểm. Nếu bạn luôn luôn sống trong không khí cởi mở từ hòa thì không có sự hãm hạì nào có thể đến với bạn. Tình thương là vật che chở tốt nhất, khí giới tốt nhất và là áo giáp tốt nhất. Tình thương yêu luôn luôn là người đáng yêu quý, bạn còn có thể mỉa mai chế giễu sự lâm nguy nữa là khác, tình thương yêu cũng bảo vệ bạn chống lại tâm tham ái và đam mê. Tình thương yêu là vị hộ pháp tốt đẹp nhất trên trần gian này.
8) Tâm vị đó sớm được bình thản. Tình thương yêu mau nhiếp tâm. Trong khi tu tập thiền quán, nếu bạn rộng mở tình thương yêu vô lượng thì bạn sẽ rất thành công. Có nhiều người than phiền rằng họ không thể định tâm được, bất cứ khi nào họ khởi sự thiền quán thì tâm của họ đi lạc hướng. Nếu họ tỉnh giác trải rộng lòng từ vô lượng thì tâm họ sẽ dễ dàng chánh niệm vào đề mục.
9) Diện mạo hảo tướng khinh an. Tình thương yêu đem đến cho bạn vẻ duyên dáng và sắc đẹp vô song. Ðây là nét đẹp thầm kín, toàn hảo nhất trên trần gian. Thế giới tiêu đi mỗi tuần 10 triệu đô la cho phí tổn mỹ phẩm và trang bị sắc đẹp. Sau chiến tranh, hiện nay ta thấy rõ có sự suy thoái khắp nơi. Vì vậy kinh tế nghiêm túc là một trong những vấn đề tái kiến tạo, tiết kiệm. Hãy để dành tiền (nếu bạn có). Những chuyên gia về mỹ phẩm và sắc đẹp đã lố bịch trước sức mạnh hùng tráng cúa tình thương yêu, yếu tố vốn ban cho sắc đẹp chân thật.
Mỹ phẩm đắt tiền chỉ tạo nên sắc đẹp vay mượn, nó vốn là sự ngụy trang lừa đảo–vọng ngữ. Thế nên chúng ta hãy luôn luôn mở rộng tình thương yêu vô hạn đối vớì nhân loại Một nét duyên dáng vô hình sẽ tỏa quanh chúng ta, ban cho chúng ta dáng điệu nhìn chung là đáng yêu.
Tình thương yêu không phải là phẩm hạnh kín đáo kỳ diệu sao? Nó ban cho con người dáng vẻ đáng yêu không phải tốn tiền. Chúng ta có được sắc đẹp thực sự mà không tốn tiền là nhờ trải rộng tình thương yêu vô hạn. Bởi vì sắc đẹp chân thực là gì? Ðó là sự duyên dáng. Vẻ đẹp duyên dáng chỉ xuất phát từ tình thương yêu vô hạn. Ở các nước Tây phương người ta gọi là vẻ quyến rũ. Ở các nước Ðông phương người ta gọi là vẻ duyên dáng. Vẻ đẹp duyên dáng là người tiêu biểu hấp dẫn cao cả nhất, dù nó là một phương thuật bán hàng hay một phương diện đời sống nào khác, nếu người nào có lòng quảng đại về tình thương yêu, vị đó sẽ lôi cuốn được khách hàng, vị đó sẽ hấp dẫn bạn bè, vị đó sẽ thu hút mọi người.
Nên nhớ rằng con đường thượng sách nhất để trở nên đẹp đẽ không phải chỉ sử dụng mỹ phẩm đóng sẵn của Hollywood mà chỉ đơn thuần rộng trải tình thương yêu vô hạn. Lòng từ bi đó phải thấm nhuần toàn khắp vũ trụ, bởi vì trong Ðạo Phật không có biên giới, không có địa phận nào cho tình thương yêu cả. Tình thương là vô tận. Nó phải xuyên suốt toàn cầu. Tình thương yêu là vô lượng. Nó có một năng lực bất tận. Chúng ta tin những thế giới trùng điệp trong Phật Giáo. Những thế giới đều lên đến con số bao la (nhờ thiên văn) và tình yêu thương cũng phải như không gian bất tận. Nó phải hướng về phía đông, tây, nam, bắc, trên, dưới và chung quanh. Chúng ta thương yêu không phải chỉ có loài người thôi mà còn thương yêu cả loài vật, loài thực vật nữa. Mỗi ngọn cỏ phải tràn đầy lòng từ vô lượng. Chúng ta yêu những dòng sông, những quả núi và khắp bầu trời. Tất cả sự sống là thực vật, khoáng vật, và sự sống động vật. Trên toàn cầu này không có gì là không đang sống. Tất cả đời sống là một, và vì vậy chúng ta phải thương yêu toàn cầu, bất cứ ở đâu cũng không có một kỳ thị phân biệt nào. Vẻ đẹp bên trong chiến thắng vẻ đẹp thô kệch xấu xí bên ngoài và làm con người lôi cuốn được kẻ khác. Vẻ duyên dáng đó có thể đạt được bằng sự thực hành lòng từ vô biên, và lòng từ đó phải được tu tập ngày đêm không ngừng nghỉ.
10) Vị đó chết thanh thản. Người ta thường chết một cách khiếp sợ. Họ sợ chết, đôi khi họ bị dằn vặt khổ sở hết sức kinh khủng. Trong kinh Phật được kể rằng khi một người sắp tái sinh vào cảnh khổ ngục, ngay trước khi chết, vị đó thấy ngọn lửa “hỏa ngục” và bạn có thể tưởng tượng những cảm giác của người sắp chết phải bị ra sao không? Ngay trước khi chết vị đó trông thấy những ngọn lửa khổ hình phóng lên, bản thân không thể nào an lạc; nhưng nếu vị đó có thực hành thiền định về lòng từ quảng đại, đương nhiên vị đó sẽ không còn khiếp sợ. Lòng từ làm cho bạn sống hạnh phúc và chết hạnh phúc. Bạn còn muốn gì nữa. Tình thương yêu là quý hóa nhất và cao thượng nhất! Nó làm cho bạn ngủ an lạc, chết an lạc. Hai điều không giống nhau sao? Ban đêm đi ngủ, điều này giống như chết. Khi thức dậy, tươi tỉnh lạỉ, bạn như được tái sinh.
11) Nếu bạn không chứng đạt Niết Bàn trong đời này, bạn sẽ được tái sanh vào cảnh trời. Lòng từ ái đưa đến sự tỉnh thức và an vui. Hai cảnh này không phải giống nhau sao?
Lòng từ biến bạn thành một vị thần ngay bây giờ trở đi. Lòng từ ban cho bạn năng lực vô biên, vượt hơn năng lực của mình và của người khác. Lòng từ khiến bạn thành một vị Phật tối thượng–giống như một bà mẹ sẵn sàng hy sinh đời mình cho đứa con duy nhất. Vì vậy ta nên thường xuyên ban phát lòng từ của mình đối với tất cả chúng sinh trên cõi đời này. Ðây là giáo huấn cao thượng của Ðức Thế Tôn. Hận thù không thể dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu toàn thế giới đều quy ngưỡng Ðức Phật thì chiến tranh sẽ không còn xảy ra nữa. Ðạo đức cộng tình thương đưa đến hòa bình hạnh phúc. Tham ái đi đôi với hận thù gây ra chiến tranh và nghèo khổ. Ðại từ bi là mẹ của mọi đức hạnh. Mong sao chúng sanh trên toàn cầu giữ mãi tâm niệm nhân ái này.
Chúng ta cố gắng gởi đến quý vị một bài Pháp nữa của Ðức Phật. Bởi vì nếu chúng ta muốn hiểu Phật Giáo một cách đúng đắn thì chúng ta phải thường xuyên tìm hiểu từ đầu nguồn–chính là Ðức Phật. Khi nước xuất phát từ đầu nguồn, nó tinh khiết, nhưng khi nước chảy xuống mặt đất nó trở nên bất tịnh. Vì vậy chúng ta đứng bao giờ phí sức học Phật từ những sách do nhiều tác giả viết ra mà phải luôn luôn nghiên cứu Phật học ngay từ những lời dạy của chính Ðức Phật. Giờ đây tôi sẽ gởi đến quý thiện hữu một chút pháp vị nữa từ một bài giảng sâu sắc của Ðức Thế Tôn. Trong Kinh Trung A Hàm, Ðức Phật dạy: có 6 giác quan bên trong và 6 nhóm ý thức, 6 nhóm xúc (tiếp nhận), 6 nhóm thọ (cảm giác), 6 nhóm ái (yêu thích) tạo thành 36 loại tất cả. Như tôi đã nói đạo Phật là khoa học giải thoát, là khoa học phân tích nên mọi thứ phải được phân xét lý giải.
Chúng ta phải dùng mắt để nhìn đúng tiến trình của cái thấy là gì. Chúng ta có mắt, có sắc thể, con mắt thêm vào hình thể liền khởi lên cái biết thấy, căn (mắt), trần (hình), thức (ý) chạm vào nhau; phát sinh xúc (tiếp xúc); rồi xúc phát sinh thọ (cảm giác) và thọ phát sinh ái (yêu thích). Tương tự như vậy xảy ra khi ta nghe, tai thêm vào âm thanh phát khởi cái biết của tai. Rồi tai, âm thanh và cái biết nghe chạm vào nhau tạo nên xúc. Rồi xúc phát sinh thọ, rồi thọ phát sinh ái. Tương tự như vậy xảy ra khi chúng ta ngửi, nếm, chạm và suy nghĩ.
Ðức Phật dạy: sau khi phân tích 36 pháp, chúng ta thấy rằng không có cái Ta nào bất diệt, bất biến bên trong 36 pháp này. Bởi vì nếu có người nói rằng con mắt là “ta”, điều này không chấp nhận được, vì sự sinh diệt của mắt là hiển nhiên, con mắt là vô thường (tạm bợ), và vì nó vô thường nên chúng ta không thể gọi nó là “ta”, bản ngã của ta, chúng ta không thể gọi hình thể là ta, chúng ta không thể gọi cái biết thấy là ta hoặc xúc thọ hay ái là ta. Khi phân tích rằng các hiện hữu đều có sự sinh diệt của chúng, ta mới đi đến kết luận rằng cái ta khởi lên rồi biến mất và vì vậy nói rằng con mắt là “ta” đều không chấp nhận được. Như vậy con mắt là vô ngã. Biện chứng tương tự áp dụng cho các hình thể. Hình thể vốn vô thường và xúc, thọ, ái tất cả đều vô thường, vì thế cái “ta” không thể tìm thấy được trong bất cứ một giác quan nào hoặc không tìm thấy được trong một pháp nào thuộc 36 pháp đã nói. Vạn pháp đều vô thường. Do vậy không có cái ta nào bất biến trong cái thường chuyển cả.
Như tôi đã giảng ngay từ đầu bài pháp rằng chúng ta chỉ ở trong những niệm tưởng tạm bợ thoáng qua, và vì những niệm tưởng cứ mãi thoáng qua nên chúng ta cứ mãi tạm thời không cố định, không có cái ta bất biến nơi con người. Con đường đưa đến nguồn gốc của ngã kiến–cái nhìn cá tính, vốn coi như của mình. Cái này là tôi hoặc cái này là chính tôi, hoặc là mắt, hình sắc, cái biết thấy, hay xúc, thọ, ái, hoặc tương tự coi cái nghe và các giác quan khác là phụ. Vì vậy bạn thấy đó, cảm giác của cái ta khởi lên qua tập quán tư duy bất thiện từ quá khứ vô tận. Chúng ta vẫn cứ suy nghĩ như vầy: cái này thuộc về tôi, cái này là tôi, cái này là chính tôi. Nhưng từ đây trở đi, chúng ta khởi sự tư duy ngược lại nếu chúng ta thường nói với sự cân nhắc mỗi và mọi điều mà chúng ta thấy hay nghe, ngửi hay nếm, hay chạm, hay suy nghĩ rằng: “Ðây không thuộc về tôi, đây không phải là tôi đây không phải là bản ngã của tôi; như thế bạn mới quân bình được tập quán suy nghĩ xấu trước kia và cái nhìn cá tính sẽ được hóa giải. Chúng ta không bao giờ tin về bản ngã, và đó chính là sự giác ngộ tối thượng, sự tỉnh thức siêu việt, đó là Niết Bàn. Con đường đưa đến tiêu trừ cái nhìn cá tính là đừng coi nó là của mình... dù là mắt, là tai, cái nghe hay bất cứ cái nào trong 6 giác quan khác hay những phần hỗ trợ cho chúng. Người đệ tử thực học của Ðức Phật trở nên nhàm chán cảnh đời và các giác quan khác nên được giải thoát. Ðối với người đệ tử đó, nhờ được giải thoát nên được tri kiến giải thoát, triệt để tin tuởng rằng đây là kiếp sống cuối cùng, rằng vị đó đã sống đời phạm hạnh thanh cao, rằng Phật sự đã làm xong và giờ đây không còn nữa những gì đã làm. Ðức Thế Tôn dạy như vậy.
Khi bàì pháp vừa thuyết xong, tâm của 60 vị Sa Môn đều giải thoát mọi kiết sử. Nói cách khác nhờ bài pháp độc nhất đó mà 60 vị Sa Môn chứng quả A La Hán tối thượng. Họ tiêu trừ các lậu hoặc như dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu v.v... Họ trở thành bậc tỉnh thức, Ðấng Toàn Giác. Họ chứng đắc Niết Bàn tối thượng chính ngay cuộc đời này. Trong Phật Giáo không cần phải đợi chết mới đạt đến mục đích, mà người ta có thể đạt Niết Bàn tối thượng ngay tại đây yà bây giờ. Ngay lúc tôi đang thuyết pháp, quý vị có thể đoạn diệt được tâm tham, tâm sân, tâm si và đạt được trạng thái vô tham, vô sân, vô si ở đỉnh cao gọi là Niết Bàn, niềm hạnh phúc cao tột nhất. Cầu mong tất cả quý vị càng sớm càng tốt đạt được cảnh giới an lạc tối thượng.
Trước khi kết thúc, tôi muốn chấn chỉnh một số quan niệm về đạo Phật, vì nơi đây còn có một số người không phải là Phật tử. Tôi sẽ cố gợi lên một ý tưởng rõ ràng về Phật Giáo là gì. Có lần khi tôi còn ở trong một trại tập trung, tôi nhớ một người bạn cùng bị giam đã cố giải thích về triết học Phật Giáo cho một thính giả là tôi. Ông là một linh mục Thiên Chúa La Mã. ông ta giảng về Phật Giáo và tôi là một hội viên của thính chúng. Một người không phải Phật tử lại đi giảng Ðạo Phật cho người Phật tử nghe–vì tôi muốn nghe những gì ông ta trình bày. Tôi thấy rằng có vài điểm tuyệt đối không đúng. Bởi vì tôi vốn là một chuyên gia Phật tử, lẽ dĩ nhiên Phật Giáo là đề tài của tôi. Chúng tôi không thể kỳ vọng một thành viên của một tôn giáo nào khác làm chuyên gia cho Phật Giáo.
Tôi thấy có vài sai lầm và đây là một số nhầm lẫn hiện đang phổ biến có liên quan Phật Giáo–tôn giáo mà tôi sẽ chấn chỉnh tốt đẹp hầu giúp người ngoại đạo có thể hiểu một cách đúng đắn Phật Giáo là gì. Trước tiên, vị thượng nhân đó nói rằng Phật Giáo không phải là tôn giáo mà Phật Giáo chỉ là một triết lý. Tôi phải chứng minh rằng Phật Giáo cũng được gọi là tôn giáo, bởi vì, Tôn giáo là gì? Tôn giáo là phương pháp diệt trừ đau khổ, bởi vì nếu không có đau khổ trên thế gian này thì tôn giáo sẽ hóa ra dư thừa. Chúng ta có tôn giáo chỉ vì trần gian này có đau khổ. Tôn giáo là phương tiện để đi đến cứu cánh. Nó ban cho sự an ủi trước mọi bất trắc cuộc đời, nó cho ta sự trầm tĩnh an lạc. Phật Giáo có Bát Chánh Ðạo–con đường tám điều chân chính, diệt khổ. Do vậy Phật Giáo là tôn giáo tuyệt vời, nó tạo ra các bậc A La Hán, những người tự mình thoát ly mọi đau khổ, vì giáo pháp của Phật đoạn trú mọi đau khổ. Phật Giáo chắc chắn được gắn cho thuật ngữ “Tôn Giáo”. Bởi vì theo định nghĩa của chúng tôi thì tôn giáo là phương pháp diệt trừ đau khổ. Dĩ nhiên có nhiều người định nghĩa về tôn giáo một cách khác nữa. Họ nói tôn giáo là phụng thờ Trời (Thượng Ðế), nhưng Phật tử chúng tôi cũng phụng thờ trời, bởi vì chúng tôi cho rằng Trời là một đấng toàn hảo. Bất cứ ai toàn hảo đều là trời, bởi vì không có trời nào hơn đấng toàn hảo. Theo như người Phật tử chúng tôi thì bất luận ai đạt được sự tận diệt tuyệt đối về tham, sân, si, đố kỵ, nghi ngờ, kiêu mạn, vị đó là Trời. Bởi vì không có trời nào cao hơn chân lý. Không có trởi nào cao hơn sự toàn hảo. Nếu có vị trời nào cao hơn sự toàn hảo thì vị đó không phải toàn hảo và vị đó không còn là trời nữa. Thế nên trời là đấng toàn hảo. Chúng tôi coi Ðức Phật là Ðấng Toàn Hảo tuyệt đối sau khi đạt được viên mãn toàn hảo. Chúng tôi gọi Ngài là vị Trời. Ngài không còn một tì vết nào về tham dục, dù Ngài sinh ra là một con người. Sau khi thành đạo dưới cội Bồ Ðề lúc 35 tuổi Ngài hoàn toàn đoạn trừ tham ái, sân hận và si mê v.v... Ngài trở thành: Ðấng Toàn Hảo, một vị Phật, Ðấng Toàn Giác. Vốn toàn hảo nên chắc chắn Ngài được tôn hiệu là Trời, bởi vì Ngài là môt vị Trời thanh tịnh. Ngài là Thiên Thượng Thiên có nghĩa là Trời của các vị Trời.
Phật tử chúng tôi phụng thờ Trời vậy thì Phật Giáo là một tôn giáo chứ không phải chỉ thuần túy là một triết lý, không còn ngờ gì nữa đó là một triết lý cao siêu nhất từng được một chúng sanh toàn hảo khai sáng nhưng Phật Giáo cũng là một tôn giáo, chúng ta có thể gọi Phật Giáo là một tôn giáo triết lý.
Điểm lầm lỗi kế tiếp mà vị thượng nhân đưa ra cho rằng Niết Bàn là một giấc ngủ không mơ. Nhưng chúng tôi nói Niết Bàn chẳng phải là một giấc ngủ không mơ. Niết Bàn là sự tỉnh ngộ cao độ. Như tôi đã giải thích trước kia rằng cuộc đời là một giấc mộng, chỉ khi nào chúng ta bừng tỉnh khỏi cuộc đời mộng ảo này thì ta được tôn hiệu là Phật–bậc Giác Ngộ tối thượng. Sống là mộng nhưng đạt được Niết Bàn là tỉnh giấc mơ cuộc đời. Mục đích của Phật Giáo là làm cho chúng ta thức tỉnh trước cuộc đời mộng ảo, làm cho chúng ta luôn luôn là người tỉnh giác. Vì vậy Niết Bàn không phải là một giấc ngủ không mơ mà là một trạng thái tỉnh thức tối thượng, trạng thái mà các bậc Thánh hưởng được ngay đây và bây giờ chứ không phải sau khi chết mới đạt được Nếu tôi nhớ không lầm thì ở những tôn giáo khác, chúng ta phải chết trước đã rồi mới đạt được phước lành. Trong Phật Giáo không cần phải đợi chết, bởi vì Ðức Phật lúc 35 tuổi, Ngài đã tận hưởng phước lạc cao tột, có thể thực hiện trên cõi đời này, Ngài chứng vô thượng Niết Bàn, sự toàn hảo tối thượng. Niết Bàn là sự tỉnh giác cao tột. Toàn thế giới như đang ngủ, đang mơ, mơ trong cơn ác mộng, người ta coi giấc mộng trống rỗng này là thật. Do vậy mà toàn thế giới này đau khổ. Vô minh–tức sự ngu si là nỗi đau khổ nghiêm trọng nhất. Trí tuệ là hạnh phúc cao đẹp nhất. Niết Bàn không phải là giấc ngủ không mơ. Niết Bàn không phải là hư vô hay không hiện hữu. Niết Bàn là thực tại của chân lý trường tồn tối thượng. Thế giới không thực, là hư ảo vì vạn pháp đều tạm bợ và biến đổi. Vắng mặt trần gian hư ảo đó là chân Niết Bàn tối thượng hay là trạng thái tỉnh thức siêu đẳng. Tôi vẫn nói rằng toàn thế giới đang bốc cháy. Niết Bàn là trạng thái tỉnh giác, trạng thái tươi mát, nơi không còn những ngọn lửa của 6 giác quan. Có sự khác biệt giữa Ðức Phật và những đệ tử của Ngài đối với những cá nhân tầm thường. Vì những vị phàm phu khi nhìn sự vật với lòng khát ái, đam mê và khi nghe với lòng khát ái, đam mê, họ đang bị đốt cháy khắp nơi. Trái lại, Ðức Phật nhìn sự vật với tâm ly dục, nghe với tâm ly dục, ngửi, nếm, chạm, nghĩ đều buông xả, không một chút đam mê, lạc thú.
Thêm một điểm sai lầm nữa mà vị linh mục quý kính đã nói rằng Phật Giáo là tiêu cực. Không đúng như vậy. Bởi vì đạo Phật ban cho trái quả tối thượng nhất ngay ở đây và bây giờ, làm sao gán cho đạo Phật là tiêu cực được? mà đạo Phật phải là một tôn giáo lạc quan cao siêu nhất bởi vì đạo Phật giải thoát con người khỏi đau khổ ngay ở đây và trong tình trạng đang sống bây giờ, nhưng Ðức Phật không ngừng ở đấy. Ngài chỉ đạy con đường thoát khổ. Nói một cách khác, Ngài chữa lành bệnh nhân, ban cho họ hạnh phúc bất tận và vì vậy Ðức Phật được gọi là vị Y sĩ vĩ đại nhất trần gian này, bởi vì Ngài giải thoát nỗi thống khổ của con người ngay đây và bây giờ, và vì con người được chữa lành mọi chứng bệnh đau khổ về thân tâm, Phật Giáo quả là một tôn giáo lạc quan nhất chứ không phải bi quan như vị linh mục đã ngộ nhận.
Như Ðức Thế Tôn đã dạy: “Này các Tỳ Kheo, giống như nước trong các đại dương chỉ có một vị, đó là vị của muối. Cũng vậy, Giáo Pháp của ta cũng là một vị, đó là vị giải thoát. Và vì Phật Giáo là đạo của giải thoát, làm sao ta có thể gắn cho Giáo Pháp giải thoát là tiêu cực được? Một cách đoan chắc, nếu một bệnh nhân được chữa lành chứng bệnh sốt rét, bệnh nhân không bao giờ dám nói thuốc điều trị của Bác sĩ chữa bệnh cho anh ta là tiêu cực và bệnh nhân sẽ nói đó là thuốc hay nhất đã chữa lành bệnh cho mình. Cũng tương tự như vậy, thuốc Bát Chánh Ðạo chừa cho con người hết đau khổ, đó là thần dược lạc quan nhất bởi vì nó chữa lành bệnh cho con người ngay tại đây và bây giờ, đồng thời ban cho vị đó niềm hạnh phúc cao tột nhất.
Phật Giáo có 4 chân lý cao thượng. Chân lý thứ tư hướng dẫn chúng ta con đường thoát khổ, an nhập hạnh phúc của Niết Bàn tối thượng trường cửu. Do vậy Phật Giáo là tôn giáo lạc quan nhất trên thế giới. Phật Pháp dạy rằng sự lạc thú là gốc rễ của khổ đau, bởi vì nếu bạn vướng mắc vào khoái lạc của mắt thì chẳng khác gì bạn đang cố uống nước muối, bạn càng uống càng thấy khát, càng nhìn bạn càng muốn nhìn, càng nghe bạn càng muốn nghe. Không sao chấm dứt được tiến trình này. Trên trần gian đây không bao giờ có một cá thể độc nhất nào nhờ vui hưởng khoái lạc của 6 giác quan mà đạt được hạnh phúc trường cửu. Vị đó chỉ đạt được sự khao khát triền miên, bởi vì càng đeo dính vào khoái lạc 6 giác quan thì bạn càng trở nên khao khát mãnh liệt. Ðiều duy nhất mà con người đạt được qua sự luyến ái 6 giác quan là sự khao khát và đánh mất Niết Bàn. Vì vậy phần đông chúng ta bị thất bại do nô lệ vào 6 giác quan. Nay chúng ta thử làm ngược lại bằng kinh nghiệm từ bỏ khoái lạc từ 6 giác quan. Sự từ bỏ như Ðức Phật đã làm. Hãy dũng cảm hình thành một chứng nghiệm đối nghich, bạn sẽ thấy lòng khao khát đoạn diệt và bạn sẽ hưởng được niềm an lạc vĩnh cửu, bởi vì ngọn lửa tham dục đã tàn rụi, trạng thái tươi mát sẽ có mặt. Nơi đây ngọn lửa không thể nào nhóm lên được lần nữa, không có diêm, không có nhiên liệu để tái phát ngọn lửa mới, con người không còn tái sinh trong lục đạo luân hồi nữa. Cũng có một ngộ nhận nữa, vị linh mục chỉ có giải thích 3 chân lý đầu mà không đề cập đến chân lý thứ tư là Ðạo đế Bát Chánh Ðạo–trong Phật Giáo là chân lý quan yếu nhất cần phải lưu tâm, đó chính là phương thuốc đưa ta đến Niết Bàn tối thượng.
Nguồn: Thiền viện Nam Mô (Hưng-Lộc, Trảng-Bom, Đồng Nai)
Con người là một ngọn lửa đang bừng cháy, không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tục. Ðời sống là một tiến trình của sự liên tục trở thành. Sự biến đổì ám chỉ cái chết và tái sinh liên tục. Một ngọn lửa không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tục và con người cũng vậy. Cho dù sức đốt thể chất hay sức nóng tâm linh, con người chỉ là một tiến trình đang bừng cháy.
a) Cuộc đời là gì? Cuộc đời như giấc mộng. Bằng chứng nào? Quá khứ ở đâu? Ta ở nơi nào? Quá khứ đã qua giống như giấc mộng rỗng không; tương lai thì chưa đến, ngay khi ta nói hiện tại ở đây thì nó đã trở thành quá khứ qua rồi! Thế nên chúng ta không có mặt ở quá khứ, không có mặt ở tương lai. Vậy thì chúng ta có mặt ở đâu? Có phải ở nơi hiện tại ngắn ngủi tạm bợ? Nơi niệm tưởng thoáng qua? Nhưng chắc chắn là không thể có một bản ngã thường hằng trong niệm tưởng thoáng qua. Do đó cuộc đời là không–sự trống rỗng. Và được sống thường hằng vĩnh viễn trong cái không này, đó là đại hồng ân, vì nơi đây tất cả khổ lụy đều vĩnh viễn dứt hẳn. Hãy nhớ rằng con người chỉ là một niệm tưởng thoáng qua và không bao giờ hiện hữu cái ngã hay cái ta nào tồn tại trong niệm tưởng ngắn ngủi đó. Những niệm tưởng đến và đi liên tục, không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tiếp. Nếu một người trong khi đang nằm mơ mà biết mình đang mơ, vị đó hoặc là tỉnh giấc, hoặc là cười thầm hình thái mơ mộng. Giấc mơ xấu không làm vị đó sợ sệt chút nào.
b)Cuộc đời hoàn toàn là một hiện tượng tâm linh. Giấc mơ là một hiện tượng tâm linh. Do đó đời là một giấc mộng, cuộc đời hoàn toàn là một hiện tượng tâm linh, vì vậy cuộc đời là một giấc mộng. Khi chúng ta đang nằm mộng, đặc biệt nếu giấc mơ xảy ra có tính cách khủng khiếp, chúng ta hoảng sợ và sự đau khổ tâm linh mà ta chịu đựng trong giấc mơ không khác gì sự đau khổ có thật trong tình trạng ta đang sống. Bởi vì cuộc đời hoàn toàn là hiện tượng tâm linh, thế nên chúng ta đau khổ trong giấc mơ do sự kiện chúng ta nghĩ là giấc mơ có thật. Tương tự như vậy, khi một vị Thánh đạt được đỉnh cao tu tập, vị Thánh đó thức tỉnh từ cơn ác mộng của cuộc đời và phấn khởi thấy rằng những gì mình tưởng là đúng, là thật thì chủ yếu chỉ là một giấc mơ hư ảo và khi đã chứng minh được sự kiện này bằng cách phân tích cuộc đời trong những kỳ hạn quá khứ và tương lai.
Con mắt không bao giờ thỏa mãn khi thấy, cũng vậy, tai không bao giờ thỏa mãn khi nghe. Thấy và nghe với lòng đam mê thì chẳng khác gì uống nước muối và sự khát nước không bao giờ hết khát được.
Ðức Thế Tôn dạy: thế giới đang cháy. Con mắt đang bừng cháy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đang bừng cháy với ngọn lửa tham, sân, si, sinh, già, bệnh, chết, buồn rầu, kêu ca, than khóc, đau khổ, tuyệt vọng.
Bây giờ tôi đã giảng đến đây, tôi nguyện nỗ lực hết sức mình để tưới chân lý vào ngọn lửa sáu giác quan của quý vị. Tôi hy vọng lúc bài Pháp này kết thúc, những ngọn lửa từ nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của quý vị sẽ trở nên lạnh nhạt, êm dịu hơn, không những chúng ta tưới thêm nước sự thật mà chúng ta còn học cách để hạn chế nhiên liệu của cái: nhìn không tham, nghe không tham, nếm không tham, xúc chạm không tham, tư duy không tham. Khi nhìn bất cứ vật gì, chúng ta phải luôn luôn phân tích hình sắc của nó để thấy đúng thực tánh của hình sắc đó. Chúng ta phải nhận thức được rằng hình sắc không đáng yêu như ta tưởng đâu. Bởi vì nếu ta phân tích hình sắc gồm 32 phần của thể xác, thì ta mới phát hiện rằng 32 phần này về thực chất không thú vị gì, hoặc ghê tởm và chán ghét. Trong Phật Giáo chúng ta luôn luôn cố gắng phân tích vạn pháp qua những thành phần cấu tạo của chúng để thấy các pháp đúng như thực tướng. Bởi vì thấy các pháp đúng như thực tướng của chúng thì ta mới tháo gỡ được các ràng buộc. Chúng ta nhớ rằng phải phân tích liên tục mới đưa đến trí huệ, chúng ta nên sống cuộc đời liên tục có chánh niệm. Nhờ luôn luôn chánh niệm, tự nhiên sau đó ta sẽ nhìn thấy đúng thực tướng của chúng. Nghĩa là khi ta nhìn sự vật gì, chúng ta phải biết mình đang nhìn gì; khi nói chúng ta phải biết mình đang nói gì; khi dứt ý niệm chúng ta cũng phải nhận thức được việc đó. Khi ăn hay uống cũng phải ý thức được sự kiện đó. Nhờ luôn luôn thực hành chánh niệm, luôn luôn tỉnh giác, chúng ta sẽ không bao giờ bị vọng tưởng và do nhìn đúng thực tướng của các pháp, chúng ta dễ đoạn trừ mọi luyến ái. Chúng ta từ bỏ nô lệ mọi sự vật. Nhờ từ bỏ nô lệ mọi sự vật, chúng ta hưởng được sự giải thoát an vui. Trong Phật Giáo điều này gọi là Niết Bàn–viễn ly các pháp vốn vô thường. Bởi vì các pháp vốn vô thường đều vượt ngoài năng lực của chúng ta, và chúng ta không nên chấp thủ vào bất cứ một luyến ái, ràng buộc nào nó vốn không tùy thuộc vào chúng ta.
Cần nhớ rằng cái giá của khoái lạc là đau khổ, khoái lạc không thể nào đạt được mà không trả giá; khoái lạc một chút mà đau đớn thì vô củng. Ðức Thế Tôn không muốn khoái lạc hay đau khổ. Ngài muốn con đường hạnh phúc khinh an của hòa bình vĩnh cửu.
Quý vị có biết 11 sự lợi lạc kỳ diệu của tình thương bao la không? Chúng ta hãy an trú trong tình thương yêu vốn cho ta sự an lạc ngọt ngào. Phật Giáo dạy pháp Giải Thoát qua đời sống phạm hạnh. Có lần Ðức Thế Tôn dạy: “Thực hành lòng từ bi vô lượng đối với chúng sanh sẽ được 11 thiện pháp kỳ diệu đầy lợi lạc”.
Tôi phải nhắc nhở quý vị biết rằng trong Phật đạo chúng ta có 40 đề mục thiền quán. Trong 40 đề mục này có 4 mục dành cho tâm thái chư thiên, hay còn gọi là tứ vô lượng tâm bao gồm: tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả.
Nhờ rộng trải vô lượng lòng từ bi, hỷ xả, ta gặt hái được nhiều quả lành. 11 quả lành mà vị đó được hưởng là gì?
l) Vị đó ngủ trong an lạc.
2) Vị đó thức trong an lạc.
3) Vị đó ngủ không thấy ác mộng.
Tôi tự hỏi không biết có người nào đau khổ vì chứng bệnh mất ngủ. Nếu có, hãy rộng trải lòng từ bi, bạn sẽ được giấc ngủ an lành, bạn sẽ thức dậy an lành, bạn sẽ không gặp ác mộng. Bởi vì khi lòng tràn ngập tình thương, bạn sẽ nhắm mắt êm ái, bạn sẽ mở mắt nhẹ nhàng như búp sen hé nở.
4) Vị đó được mọi người yêu quý. Vì vậy lòng yêu thương ban cho bạn nhiều thiện hữu cõi người, nhưng hãy nhớ rằng thiện hữu cõi trời còn hữu ích hơn gấp bội so với bạn cõi người tầm thường. Ngạn ngữ có câu: “Thiện hữu cứu mình”. Nếu bạn lành của bạn là người trời, họ chẳng bao giờ ruồng bỏ bạn. Có hai loại bạn, những bạn bè qua quan hệ từ trước, qua quan hệ từ kiếp trước, đó là tình bạn chân thật. Và có những bạn bè thực sự trở thành bạn qua thiền định. Nếu bạn gặp được những thiện hữu cõi trời, họ có năng lực hơn các thiện hữu cõi trần và họ không bao giờ ruồng bỏ bạn. Người giàu thường có nhiều bạn nhưng khi họ mất hết của cải thì họ cũng mất luôn cả bạn hữu. Những người như vậy chỉ là những bạn hữu ngắn ngủi nhất thời.
5)Vị đó được các dạng phi nhân yêu quý. Lòng yêu thương đem đến cho bạn nhiều thiện hữu phi nhân. Bạn không cần lo sợ về quỷ ma trong bóng đêm nếu bạn rộng mở lòng từ. Bởi vì ngay đến loài ma quỷ cũng trở thành thiện hữu nếu bạn yêu thương mọi người trên toàn cõi vũ trụ bao la này.
6) Vị đó được chư thiên thần chiếu cố. Lòng yêu thương sẽ đem đến cho bạn nhiều thiện hữu thiên thần. Vậy thì hãy siêng năng tu dưỡng tình bằng hữu thiên thần bằng cách thường xuyên trải lòng yêu thương đến với họ. Các thiện hữu cõi trời có năng lực vô song, có uy lực cứu giúp mạnh mẽ hơn các thiện hữu cõi trần. Ðúng lúc cần họ sẽ đứng gần hộ trì cho bạn. Quả vậy, lòng yêu thương sẽ được toàn thế giới ngưỡng mộ.
7) Không có lửa, thuốc độc hay gươm dao nào có thể ngăn chặn bước đi của vị đó. Cũng không có bom đạn nào khiến bạn sợ hãi khi bom đạn từ bầu trời rơi xuống nghiền nát Hỡi con người khiếp sợ? Hãy mở rộng lòng thương yêu, bạn sẽ trở thành con người vô úy (không lo sợ). Lòng từ bảo vệ và ban cho bạn cảm giác an bình tịnh lạc. Do luôn luôn mở rộng lòng từ, bạn chỉ giản dị cất tiếng với lòng vui sướng hoan hỷ! Bạn sẽ chẳng bao giờ lo sợ nếu bạn sống trong tình thương yêu vô bờ bến, vì lòng thương yêu sẽ hộ trì cho bạn thoát khỏi mọi nguy hiểm. Nếu bạn luôn luôn sống trong không khí cởi mở từ hòa thì không có sự hãm hạì nào có thể đến với bạn. Tình thương là vật che chở tốt nhất, khí giới tốt nhất và là áo giáp tốt nhất. Tình thương yêu luôn luôn là người đáng yêu quý, bạn còn có thể mỉa mai chế giễu sự lâm nguy nữa là khác, tình thương yêu cũng bảo vệ bạn chống lại tâm tham ái và đam mê. Tình thương yêu là vị hộ pháp tốt đẹp nhất trên trần gian này.
8) Tâm vị đó sớm được bình thản. Tình thương yêu mau nhiếp tâm. Trong khi tu tập thiền quán, nếu bạn rộng mở tình thương yêu vô lượng thì bạn sẽ rất thành công. Có nhiều người than phiền rằng họ không thể định tâm được, bất cứ khi nào họ khởi sự thiền quán thì tâm của họ đi lạc hướng. Nếu họ tỉnh giác trải rộng lòng từ vô lượng thì tâm họ sẽ dễ dàng chánh niệm vào đề mục.
9) Diện mạo hảo tướng khinh an. Tình thương yêu đem đến cho bạn vẻ duyên dáng và sắc đẹp vô song. Ðây là nét đẹp thầm kín, toàn hảo nhất trên trần gian. Thế giới tiêu đi mỗi tuần 10 triệu đô la cho phí tổn mỹ phẩm và trang bị sắc đẹp. Sau chiến tranh, hiện nay ta thấy rõ có sự suy thoái khắp nơi. Vì vậy kinh tế nghiêm túc là một trong những vấn đề tái kiến tạo, tiết kiệm. Hãy để dành tiền (nếu bạn có). Những chuyên gia về mỹ phẩm và sắc đẹp đã lố bịch trước sức mạnh hùng tráng cúa tình thương yêu, yếu tố vốn ban cho sắc đẹp chân thật.
Mỹ phẩm đắt tiền chỉ tạo nên sắc đẹp vay mượn, nó vốn là sự ngụy trang lừa đảo–vọng ngữ. Thế nên chúng ta hãy luôn luôn mở rộng tình thương yêu vô hạn đối vớì nhân loại Một nét duyên dáng vô hình sẽ tỏa quanh chúng ta, ban cho chúng ta dáng điệu nhìn chung là đáng yêu.
Tình thương yêu không phải là phẩm hạnh kín đáo kỳ diệu sao? Nó ban cho con người dáng vẻ đáng yêu không phải tốn tiền. Chúng ta có được sắc đẹp thực sự mà không tốn tiền là nhờ trải rộng tình thương yêu vô hạn. Bởi vì sắc đẹp chân thực là gì? Ðó là sự duyên dáng. Vẻ đẹp duyên dáng chỉ xuất phát từ tình thương yêu vô hạn. Ở các nước Tây phương người ta gọi là vẻ quyến rũ. Ở các nước Ðông phương người ta gọi là vẻ duyên dáng. Vẻ đẹp duyên dáng là người tiêu biểu hấp dẫn cao cả nhất, dù nó là một phương thuật bán hàng hay một phương diện đời sống nào khác, nếu người nào có lòng quảng đại về tình thương yêu, vị đó sẽ lôi cuốn được khách hàng, vị đó sẽ hấp dẫn bạn bè, vị đó sẽ thu hút mọi người.
Nên nhớ rằng con đường thượng sách nhất để trở nên đẹp đẽ không phải chỉ sử dụng mỹ phẩm đóng sẵn của Hollywood mà chỉ đơn thuần rộng trải tình thương yêu vô hạn. Lòng từ bi đó phải thấm nhuần toàn khắp vũ trụ, bởi vì trong Ðạo Phật không có biên giới, không có địa phận nào cho tình thương yêu cả. Tình thương là vô tận. Nó phải xuyên suốt toàn cầu. Tình thương yêu là vô lượng. Nó có một năng lực bất tận. Chúng ta tin những thế giới trùng điệp trong Phật Giáo. Những thế giới đều lên đến con số bao la (nhờ thiên văn) và tình yêu thương cũng phải như không gian bất tận. Nó phải hướng về phía đông, tây, nam, bắc, trên, dưới và chung quanh. Chúng ta thương yêu không phải chỉ có loài người thôi mà còn thương yêu cả loài vật, loài thực vật nữa. Mỗi ngọn cỏ phải tràn đầy lòng từ vô lượng. Chúng ta yêu những dòng sông, những quả núi và khắp bầu trời. Tất cả sự sống là thực vật, khoáng vật, và sự sống động vật. Trên toàn cầu này không có gì là không đang sống. Tất cả đời sống là một, và vì vậy chúng ta phải thương yêu toàn cầu, bất cứ ở đâu cũng không có một kỳ thị phân biệt nào. Vẻ đẹp bên trong chiến thắng vẻ đẹp thô kệch xấu xí bên ngoài và làm con người lôi cuốn được kẻ khác. Vẻ duyên dáng đó có thể đạt được bằng sự thực hành lòng từ vô biên, và lòng từ đó phải được tu tập ngày đêm không ngừng nghỉ.
10) Vị đó chết thanh thản. Người ta thường chết một cách khiếp sợ. Họ sợ chết, đôi khi họ bị dằn vặt khổ sở hết sức kinh khủng. Trong kinh Phật được kể rằng khi một người sắp tái sinh vào cảnh khổ ngục, ngay trước khi chết, vị đó thấy ngọn lửa “hỏa ngục” và bạn có thể tưởng tượng những cảm giác của người sắp chết phải bị ra sao không? Ngay trước khi chết vị đó trông thấy những ngọn lửa khổ hình phóng lên, bản thân không thể nào an lạc; nhưng nếu vị đó có thực hành thiền định về lòng từ quảng đại, đương nhiên vị đó sẽ không còn khiếp sợ. Lòng từ làm cho bạn sống hạnh phúc và chết hạnh phúc. Bạn còn muốn gì nữa. Tình thương yêu là quý hóa nhất và cao thượng nhất! Nó làm cho bạn ngủ an lạc, chết an lạc. Hai điều không giống nhau sao? Ban đêm đi ngủ, điều này giống như chết. Khi thức dậy, tươi tỉnh lạỉ, bạn như được tái sinh.
11) Nếu bạn không chứng đạt Niết Bàn trong đời này, bạn sẽ được tái sanh vào cảnh trời. Lòng từ ái đưa đến sự tỉnh thức và an vui. Hai cảnh này không phải giống nhau sao?
Lòng từ biến bạn thành một vị thần ngay bây giờ trở đi. Lòng từ ban cho bạn năng lực vô biên, vượt hơn năng lực của mình và của người khác. Lòng từ khiến bạn thành một vị Phật tối thượng–giống như một bà mẹ sẵn sàng hy sinh đời mình cho đứa con duy nhất. Vì vậy ta nên thường xuyên ban phát lòng từ của mình đối với tất cả chúng sinh trên cõi đời này. Ðây là giáo huấn cao thượng của Ðức Thế Tôn. Hận thù không thể dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu toàn thế giới đều quy ngưỡng Ðức Phật thì chiến tranh sẽ không còn xảy ra nữa. Ðạo đức cộng tình thương đưa đến hòa bình hạnh phúc. Tham ái đi đôi với hận thù gây ra chiến tranh và nghèo khổ. Ðại từ bi là mẹ của mọi đức hạnh. Mong sao chúng sanh trên toàn cầu giữ mãi tâm niệm nhân ái này.
Chúng ta cố gắng gởi đến quý vị một bài Pháp nữa của Ðức Phật. Bởi vì nếu chúng ta muốn hiểu Phật Giáo một cách đúng đắn thì chúng ta phải thường xuyên tìm hiểu từ đầu nguồn–chính là Ðức Phật. Khi nước xuất phát từ đầu nguồn, nó tinh khiết, nhưng khi nước chảy xuống mặt đất nó trở nên bất tịnh. Vì vậy chúng ta đứng bao giờ phí sức học Phật từ những sách do nhiều tác giả viết ra mà phải luôn luôn nghiên cứu Phật học ngay từ những lời dạy của chính Ðức Phật. Giờ đây tôi sẽ gởi đến quý thiện hữu một chút pháp vị nữa từ một bài giảng sâu sắc của Ðức Thế Tôn. Trong Kinh Trung A Hàm, Ðức Phật dạy: có 6 giác quan bên trong và 6 nhóm ý thức, 6 nhóm xúc (tiếp nhận), 6 nhóm thọ (cảm giác), 6 nhóm ái (yêu thích) tạo thành 36 loại tất cả. Như tôi đã nói đạo Phật là khoa học giải thoát, là khoa học phân tích nên mọi thứ phải được phân xét lý giải.
Chúng ta phải dùng mắt để nhìn đúng tiến trình của cái thấy là gì. Chúng ta có mắt, có sắc thể, con mắt thêm vào hình thể liền khởi lên cái biết thấy, căn (mắt), trần (hình), thức (ý) chạm vào nhau; phát sinh xúc (tiếp xúc); rồi xúc phát sinh thọ (cảm giác) và thọ phát sinh ái (yêu thích). Tương tự như vậy xảy ra khi ta nghe, tai thêm vào âm thanh phát khởi cái biết của tai. Rồi tai, âm thanh và cái biết nghe chạm vào nhau tạo nên xúc. Rồi xúc phát sinh thọ, rồi thọ phát sinh ái. Tương tự như vậy xảy ra khi chúng ta ngửi, nếm, chạm và suy nghĩ.
Ðức Phật dạy: sau khi phân tích 36 pháp, chúng ta thấy rằng không có cái Ta nào bất diệt, bất biến bên trong 36 pháp này. Bởi vì nếu có người nói rằng con mắt là “ta”, điều này không chấp nhận được, vì sự sinh diệt của mắt là hiển nhiên, con mắt là vô thường (tạm bợ), và vì nó vô thường nên chúng ta không thể gọi nó là “ta”, bản ngã của ta, chúng ta không thể gọi hình thể là ta, chúng ta không thể gọi cái biết thấy là ta hoặc xúc thọ hay ái là ta. Khi phân tích rằng các hiện hữu đều có sự sinh diệt của chúng, ta mới đi đến kết luận rằng cái ta khởi lên rồi biến mất và vì vậy nói rằng con mắt là “ta” đều không chấp nhận được. Như vậy con mắt là vô ngã. Biện chứng tương tự áp dụng cho các hình thể. Hình thể vốn vô thường và xúc, thọ, ái tất cả đều vô thường, vì thế cái “ta” không thể tìm thấy được trong bất cứ một giác quan nào hoặc không tìm thấy được trong một pháp nào thuộc 36 pháp đã nói. Vạn pháp đều vô thường. Do vậy không có cái ta nào bất biến trong cái thường chuyển cả.
Như tôi đã giảng ngay từ đầu bài pháp rằng chúng ta chỉ ở trong những niệm tưởng tạm bợ thoáng qua, và vì những niệm tưởng cứ mãi thoáng qua nên chúng ta cứ mãi tạm thời không cố định, không có cái ta bất biến nơi con người. Con đường đưa đến nguồn gốc của ngã kiến–cái nhìn cá tính, vốn coi như của mình. Cái này là tôi hoặc cái này là chính tôi, hoặc là mắt, hình sắc, cái biết thấy, hay xúc, thọ, ái, hoặc tương tự coi cái nghe và các giác quan khác là phụ. Vì vậy bạn thấy đó, cảm giác của cái ta khởi lên qua tập quán tư duy bất thiện từ quá khứ vô tận. Chúng ta vẫn cứ suy nghĩ như vầy: cái này thuộc về tôi, cái này là tôi, cái này là chính tôi. Nhưng từ đây trở đi, chúng ta khởi sự tư duy ngược lại nếu chúng ta thường nói với sự cân nhắc mỗi và mọi điều mà chúng ta thấy hay nghe, ngửi hay nếm, hay chạm, hay suy nghĩ rằng: “Ðây không thuộc về tôi, đây không phải là tôi đây không phải là bản ngã của tôi; như thế bạn mới quân bình được tập quán suy nghĩ xấu trước kia và cái nhìn cá tính sẽ được hóa giải. Chúng ta không bao giờ tin về bản ngã, và đó chính là sự giác ngộ tối thượng, sự tỉnh thức siêu việt, đó là Niết Bàn. Con đường đưa đến tiêu trừ cái nhìn cá tính là đừng coi nó là của mình... dù là mắt, là tai, cái nghe hay bất cứ cái nào trong 6 giác quan khác hay những phần hỗ trợ cho chúng. Người đệ tử thực học của Ðức Phật trở nên nhàm chán cảnh đời và các giác quan khác nên được giải thoát. Ðối với người đệ tử đó, nhờ được giải thoát nên được tri kiến giải thoát, triệt để tin tuởng rằng đây là kiếp sống cuối cùng, rằng vị đó đã sống đời phạm hạnh thanh cao, rằng Phật sự đã làm xong và giờ đây không còn nữa những gì đã làm. Ðức Thế Tôn dạy như vậy.
Khi bàì pháp vừa thuyết xong, tâm của 60 vị Sa Môn đều giải thoát mọi kiết sử. Nói cách khác nhờ bài pháp độc nhất đó mà 60 vị Sa Môn chứng quả A La Hán tối thượng. Họ tiêu trừ các lậu hoặc như dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu v.v... Họ trở thành bậc tỉnh thức, Ðấng Toàn Giác. Họ chứng đắc Niết Bàn tối thượng chính ngay cuộc đời này. Trong Phật Giáo không cần phải đợi chết mới đạt đến mục đích, mà người ta có thể đạt Niết Bàn tối thượng ngay tại đây yà bây giờ. Ngay lúc tôi đang thuyết pháp, quý vị có thể đoạn diệt được tâm tham, tâm sân, tâm si và đạt được trạng thái vô tham, vô sân, vô si ở đỉnh cao gọi là Niết Bàn, niềm hạnh phúc cao tột nhất. Cầu mong tất cả quý vị càng sớm càng tốt đạt được cảnh giới an lạc tối thượng.
Trước khi kết thúc, tôi muốn chấn chỉnh một số quan niệm về đạo Phật, vì nơi đây còn có một số người không phải là Phật tử. Tôi sẽ cố gợi lên một ý tưởng rõ ràng về Phật Giáo là gì. Có lần khi tôi còn ở trong một trại tập trung, tôi nhớ một người bạn cùng bị giam đã cố giải thích về triết học Phật Giáo cho một thính giả là tôi. Ông là một linh mục Thiên Chúa La Mã. ông ta giảng về Phật Giáo và tôi là một hội viên của thính chúng. Một người không phải Phật tử lại đi giảng Ðạo Phật cho người Phật tử nghe–vì tôi muốn nghe những gì ông ta trình bày. Tôi thấy rằng có vài điểm tuyệt đối không đúng. Bởi vì tôi vốn là một chuyên gia Phật tử, lẽ dĩ nhiên Phật Giáo là đề tài của tôi. Chúng tôi không thể kỳ vọng một thành viên của một tôn giáo nào khác làm chuyên gia cho Phật Giáo.
Tôi thấy có vài sai lầm và đây là một số nhầm lẫn hiện đang phổ biến có liên quan Phật Giáo–tôn giáo mà tôi sẽ chấn chỉnh tốt đẹp hầu giúp người ngoại đạo có thể hiểu một cách đúng đắn Phật Giáo là gì. Trước tiên, vị thượng nhân đó nói rằng Phật Giáo không phải là tôn giáo mà Phật Giáo chỉ là một triết lý. Tôi phải chứng minh rằng Phật Giáo cũng được gọi là tôn giáo, bởi vì, Tôn giáo là gì? Tôn giáo là phương pháp diệt trừ đau khổ, bởi vì nếu không có đau khổ trên thế gian này thì tôn giáo sẽ hóa ra dư thừa. Chúng ta có tôn giáo chỉ vì trần gian này có đau khổ. Tôn giáo là phương tiện để đi đến cứu cánh. Nó ban cho sự an ủi trước mọi bất trắc cuộc đời, nó cho ta sự trầm tĩnh an lạc. Phật Giáo có Bát Chánh Ðạo–con đường tám điều chân chính, diệt khổ. Do vậy Phật Giáo là tôn giáo tuyệt vời, nó tạo ra các bậc A La Hán, những người tự mình thoát ly mọi đau khổ, vì giáo pháp của Phật đoạn trú mọi đau khổ. Phật Giáo chắc chắn được gắn cho thuật ngữ “Tôn Giáo”. Bởi vì theo định nghĩa của chúng tôi thì tôn giáo là phương pháp diệt trừ đau khổ. Dĩ nhiên có nhiều người định nghĩa về tôn giáo một cách khác nữa. Họ nói tôn giáo là phụng thờ Trời (Thượng Ðế), nhưng Phật tử chúng tôi cũng phụng thờ trời, bởi vì chúng tôi cho rằng Trời là một đấng toàn hảo. Bất cứ ai toàn hảo đều là trời, bởi vì không có trời nào hơn đấng toàn hảo. Theo như người Phật tử chúng tôi thì bất luận ai đạt được sự tận diệt tuyệt đối về tham, sân, si, đố kỵ, nghi ngờ, kiêu mạn, vị đó là Trời. Bởi vì không có trời nào cao hơn chân lý. Không có trởi nào cao hơn sự toàn hảo. Nếu có vị trời nào cao hơn sự toàn hảo thì vị đó không phải toàn hảo và vị đó không còn là trời nữa. Thế nên trời là đấng toàn hảo. Chúng tôi coi Ðức Phật là Ðấng Toàn Hảo tuyệt đối sau khi đạt được viên mãn toàn hảo. Chúng tôi gọi Ngài là vị Trời. Ngài không còn một tì vết nào về tham dục, dù Ngài sinh ra là một con người. Sau khi thành đạo dưới cội Bồ Ðề lúc 35 tuổi Ngài hoàn toàn đoạn trừ tham ái, sân hận và si mê v.v... Ngài trở thành: Ðấng Toàn Hảo, một vị Phật, Ðấng Toàn Giác. Vốn toàn hảo nên chắc chắn Ngài được tôn hiệu là Trời, bởi vì Ngài là môt vị Trời thanh tịnh. Ngài là Thiên Thượng Thiên có nghĩa là Trời của các vị Trời.
Phật tử chúng tôi phụng thờ Trời vậy thì Phật Giáo là một tôn giáo chứ không phải chỉ thuần túy là một triết lý, không còn ngờ gì nữa đó là một triết lý cao siêu nhất từng được một chúng sanh toàn hảo khai sáng nhưng Phật Giáo cũng là một tôn giáo, chúng ta có thể gọi Phật Giáo là một tôn giáo triết lý.
Điểm lầm lỗi kế tiếp mà vị thượng nhân đưa ra cho rằng Niết Bàn là một giấc ngủ không mơ. Nhưng chúng tôi nói Niết Bàn chẳng phải là một giấc ngủ không mơ. Niết Bàn là sự tỉnh ngộ cao độ. Như tôi đã giải thích trước kia rằng cuộc đời là một giấc mộng, chỉ khi nào chúng ta bừng tỉnh khỏi cuộc đời mộng ảo này thì ta được tôn hiệu là Phật–bậc Giác Ngộ tối thượng. Sống là mộng nhưng đạt được Niết Bàn là tỉnh giấc mơ cuộc đời. Mục đích của Phật Giáo là làm cho chúng ta thức tỉnh trước cuộc đời mộng ảo, làm cho chúng ta luôn luôn là người tỉnh giác. Vì vậy Niết Bàn không phải là một giấc ngủ không mơ mà là một trạng thái tỉnh thức tối thượng, trạng thái mà các bậc Thánh hưởng được ngay đây và bây giờ chứ không phải sau khi chết mới đạt được Nếu tôi nhớ không lầm thì ở những tôn giáo khác, chúng ta phải chết trước đã rồi mới đạt được phước lành. Trong Phật Giáo không cần phải đợi chết, bởi vì Ðức Phật lúc 35 tuổi, Ngài đã tận hưởng phước lạc cao tột, có thể thực hiện trên cõi đời này, Ngài chứng vô thượng Niết Bàn, sự toàn hảo tối thượng. Niết Bàn là sự tỉnh giác cao tột. Toàn thế giới như đang ngủ, đang mơ, mơ trong cơn ác mộng, người ta coi giấc mộng trống rỗng này là thật. Do vậy mà toàn thế giới này đau khổ. Vô minh–tức sự ngu si là nỗi đau khổ nghiêm trọng nhất. Trí tuệ là hạnh phúc cao đẹp nhất. Niết Bàn không phải là giấc ngủ không mơ. Niết Bàn không phải là hư vô hay không hiện hữu. Niết Bàn là thực tại của chân lý trường tồn tối thượng. Thế giới không thực, là hư ảo vì vạn pháp đều tạm bợ và biến đổi. Vắng mặt trần gian hư ảo đó là chân Niết Bàn tối thượng hay là trạng thái tỉnh thức siêu đẳng. Tôi vẫn nói rằng toàn thế giới đang bốc cháy. Niết Bàn là trạng thái tỉnh giác, trạng thái tươi mát, nơi không còn những ngọn lửa của 6 giác quan. Có sự khác biệt giữa Ðức Phật và những đệ tử của Ngài đối với những cá nhân tầm thường. Vì những vị phàm phu khi nhìn sự vật với lòng khát ái, đam mê và khi nghe với lòng khát ái, đam mê, họ đang bị đốt cháy khắp nơi. Trái lại, Ðức Phật nhìn sự vật với tâm ly dục, nghe với tâm ly dục, ngửi, nếm, chạm, nghĩ đều buông xả, không một chút đam mê, lạc thú.
Thêm một điểm sai lầm nữa mà vị linh mục quý kính đã nói rằng Phật Giáo là tiêu cực. Không đúng như vậy. Bởi vì đạo Phật ban cho trái quả tối thượng nhất ngay ở đây và bây giờ, làm sao gán cho đạo Phật là tiêu cực được? mà đạo Phật phải là một tôn giáo lạc quan cao siêu nhất bởi vì đạo Phật giải thoát con người khỏi đau khổ ngay ở đây và trong tình trạng đang sống bây giờ, nhưng Ðức Phật không ngừng ở đấy. Ngài chỉ đạy con đường thoát khổ. Nói một cách khác, Ngài chữa lành bệnh nhân, ban cho họ hạnh phúc bất tận và vì vậy Ðức Phật được gọi là vị Y sĩ vĩ đại nhất trần gian này, bởi vì Ngài giải thoát nỗi thống khổ của con người ngay đây và bây giờ, và vì con người được chữa lành mọi chứng bệnh đau khổ về thân tâm, Phật Giáo quả là một tôn giáo lạc quan nhất chứ không phải bi quan như vị linh mục đã ngộ nhận.
Như Ðức Thế Tôn đã dạy: “Này các Tỳ Kheo, giống như nước trong các đại dương chỉ có một vị, đó là vị của muối. Cũng vậy, Giáo Pháp của ta cũng là một vị, đó là vị giải thoát. Và vì Phật Giáo là đạo của giải thoát, làm sao ta có thể gắn cho Giáo Pháp giải thoát là tiêu cực được? Một cách đoan chắc, nếu một bệnh nhân được chữa lành chứng bệnh sốt rét, bệnh nhân không bao giờ dám nói thuốc điều trị của Bác sĩ chữa bệnh cho anh ta là tiêu cực và bệnh nhân sẽ nói đó là thuốc hay nhất đã chữa lành bệnh cho mình. Cũng tương tự như vậy, thuốc Bát Chánh Ðạo chừa cho con người hết đau khổ, đó là thần dược lạc quan nhất bởi vì nó chữa lành bệnh cho con người ngay tại đây và bây giờ, đồng thời ban cho vị đó niềm hạnh phúc cao tột nhất.
Phật Giáo có 4 chân lý cao thượng. Chân lý thứ tư hướng dẫn chúng ta con đường thoát khổ, an nhập hạnh phúc của Niết Bàn tối thượng trường cửu. Do vậy Phật Giáo là tôn giáo lạc quan nhất trên thế giới. Phật Pháp dạy rằng sự lạc thú là gốc rễ của khổ đau, bởi vì nếu bạn vướng mắc vào khoái lạc của mắt thì chẳng khác gì bạn đang cố uống nước muối, bạn càng uống càng thấy khát, càng nhìn bạn càng muốn nhìn, càng nghe bạn càng muốn nghe. Không sao chấm dứt được tiến trình này. Trên trần gian đây không bao giờ có một cá thể độc nhất nào nhờ vui hưởng khoái lạc của 6 giác quan mà đạt được hạnh phúc trường cửu. Vị đó chỉ đạt được sự khao khát triền miên, bởi vì càng đeo dính vào khoái lạc 6 giác quan thì bạn càng trở nên khao khát mãnh liệt. Ðiều duy nhất mà con người đạt được qua sự luyến ái 6 giác quan là sự khao khát và đánh mất Niết Bàn. Vì vậy phần đông chúng ta bị thất bại do nô lệ vào 6 giác quan. Nay chúng ta thử làm ngược lại bằng kinh nghiệm từ bỏ khoái lạc từ 6 giác quan. Sự từ bỏ như Ðức Phật đã làm. Hãy dũng cảm hình thành một chứng nghiệm đối nghich, bạn sẽ thấy lòng khao khát đoạn diệt và bạn sẽ hưởng được niềm an lạc vĩnh cửu, bởi vì ngọn lửa tham dục đã tàn rụi, trạng thái tươi mát sẽ có mặt. Nơi đây ngọn lửa không thể nào nhóm lên được lần nữa, không có diêm, không có nhiên liệu để tái phát ngọn lửa mới, con người không còn tái sinh trong lục đạo luân hồi nữa. Cũng có một ngộ nhận nữa, vị linh mục chỉ có giải thích 3 chân lý đầu mà không đề cập đến chân lý thứ tư là Ðạo đế Bát Chánh Ðạo–trong Phật Giáo là chân lý quan yếu nhất cần phải lưu tâm, đó chính là phương thuốc đưa ta đến Niết Bàn tối thượng.
Nguồn: Thiền viện Nam Mô (Hưng-Lộc, Trảng-Bom, Đồng Nai)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét