Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

ĐỨC PHẬT VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ - TT Thích Giải Thông Phần 9

                   ĐỨC PHẬT VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ 



(Dịch giả: TT Thích Giải Thông-Phỏng dịch theo bản tiếng Anh The light of truth của Giảng sư LOKANATHA )


                   Giáo Pháp Bất Diệt

Thật khó được tái sanh làm người. Nếu bạn chỉ nhận biết tái sinh làm người quả là một đại nhân duyên thì chắc chắn bạn sẽ tận dụng hết đời mình như một con người có được ngày hôm nay. Bởi vì nếu một người bị tái sinh làm con vật, chỉ biết nhai nuốt thì vị đó sẽ đi từ cảnh giới đọa lạc này sang cảnh giới đọa lạc khác còn tệ hại hơn, hoặc từ tình trạng bi đát này đến tình trạng bi đát hơn nữa, cho đến khi vị đó lạc dần đến tầng đá sâu thẳm của trạng thái hiện hữu gọi là địa ngục. Tại sao vậy? Bởi vì khi một người tái sanh làm con vật, vị đó không thể nào tu tập năm học giới được. 

Tôi đoan chắc rằng một con sư tử không biết năm học giới là gì; cả loài dê, loài cá hay cá sấu cũng vậy. Chúng chỉ đơn giản biết rằng phải đấu tranh để sống còn; vì mọi sự đều đúng luật theo tính cách luật rừng của chúng. Thế nên bạn phải cố gắng hết sức mình. Giờ đây bạn đã được tái sinh làm người, đừng dể bị đọa xứ ở một cảnh giới thấp kém hơn. Hãy đảm bảo cho sự giải thoát của mình. Nếu bạn không thể nỗ lực chứng đạt Phật quả tối thượng thì ít nhất bạn cũng quyết tâm để trở thành một bậc Nhập Lưu–Tu Ðà Hườn. Như vậy bạn mới có thể được cứu thoát khỏi những kiếp tái sanh thấp kém hơn trong những tình huống xấu hơn. Bởi vì nếu bạn trở thành một bậc Tu Ðà Hườn (Nhập Lưu) bạn sẽ còn tái sinh nhiều nhất 7 lần nữa và luôn luôn được tái sinh kiếp người chứ không bị bất hạnh tái sinh làm loài vật. 

Ðạo Phật không phải là tôn giáo vô thần hay hữu thần. Nếu bạn nói đạo Phật là vô thần thì vô thần với ý nghĩa rằng Ðức Phật không phải là người sáng thế. Nếu bạn định nghĩa thần như là người tạo ra trời đất thì Ðạo Phật là đạo vô thần. Bởi vì trong Ðạo Phậl chúng ta không có thần là kẻ sáng tạo. Nếu như bạn nóỉ thần là người tự làm cho mình toàn hảo thì đạo Phật là tôn giáo duy nhất có Thần. Bởi vì trong Ðạo Phật chúng ta có Thái Tử Tất Ðạt Ða; Người đã tu tập và chuyển hóa chính mình thành Phật. Và Ngài là vị thần thanh tịnh, vì Thần tối cao trong tất cả. Vì lẽ đó chúng ta gọi Ðức Phật là Trời của các Trời, Thần của các vị Thần. Vậy thì kẻ sáng tạo là ai? đó là lòng tham ái tạo ra. Sự sáng tạo này đồng nghĩa với khổ đau. Bất cứ lúc nào, việc gì được tạo nên thì đau khổ được tạo nên (cái này sinh thì cái kia sinh). Ðạo Phật không sáng tạo mà đoạn trừ sáng tạo và đau khổ. Chúng ta phải đoạn diệt trần gian để đạt Niết Bàn, phẩm hạnh đoạn dỉệt đau khổ và cống hiến hạnh phúc vĩnh cửu. Người ta đạt được Niết Bàn bằng cách nào? Niết Bàn là đoạn tuyệt tham, sân, si. Làm sao chấm dứt được tham ái, sân hận và ngu si? Bằng phương pháp bố thí, trì giới và thiền định, chúng ta đạt được tâm không tham, tâm không sân, tâm không si. Ðó là Niết Bàn, hạnh phúc cao vời nhất. 

Chúng ta đạt được Niết Bàn bằng cách quán sát tâm. Bởi vì lời dạy của chư Phật là làm trong sạch tâm. Một khi tâm được chuyển hóa ta mới đạt được Niết Bàn. Niết Bàn cũng đạt được nhờ sự nhận thức rằng con ngườì chỉ là năm hợp thể (ngũ uẩn). Khi nào chúng ta nhận thức được con người chỉ là năm hợp thể, và biết từ bỏ năm hợp thể đó ta sẽ đạt được phước lạc vô biên. Tại sao năm hợp thể này phải nên từ bỏ, bởi vì chúng vốn vô thường, khổ, vô ngã. Thân này không phải của ta, cảm thọ (cảm xúc) này không phải của ta, tri giác (cảm nhận) này không phải của ta, rung động (khuynh hướng) này không phải của ta và ý thức này không phải của ta. 

Sáng nay vị thông dịch viên của tôi nói rằng anh ta bị con chó cắn nơi tay, nhưng vốn là một Phật tử, khi nhận ra rằng “sắc” này không phải của mình, anh ta hoàn toàn tự tại coi thường vết chó cắn. Nếu anh ấy nói: “sắc này không phải của tôi. Thân xác này không thuộc về tôi. Cái đầu này không thuộc về tôi, tay chân này cũng không phải của tôi”. Tại sao sắc uẩn lại không phải của anh ta? Bởi vì thân thể là đất nước, gió, lửa, và khoảng không. Quý vị có thể nói: “Ðây là nước của tôi hay đây là đất, hoặc đây là gió, đây là lửa, là khoảng không của tôi” không? Vì vậy người thông dịch vốn biết rõ rằng năm hợp thể này không phải của anh ta, liền từ bỏ 5 hợp thể. Năm hợp thể này cắn năm hợp thể kia. Tại sao lại phiền não về năm hợp thể vốn chúng là vô ngã. Không có chủ nhân và không có tự tính nên năm uẩn này không phiền não năm uẩn kia. Dĩ nhiên anh ta đã đến y sĩ, tôi cho rằng anh ấy đã thực hiện điều đó một cách buông xả, hoan hỷ. 

Tuy nhiên nếu chúng ta nhận thức được rằng năm uẩn (năm hợp thể) không phải là của ta thì chúng ta sống một cách an lạc, vô nhiễm không còn sự đau khổ nào. 

Một hôm Ðức Phật ngỏ lời với Chư Tăng, Ngài dạy: “Này các vị Tỳ Kheo! Các ông có thấy những cành cây, các ông có thấy những nhánh cây và lá cây nơi Ðại Tu Viện Savatthi không?” Chư Tăng trả lời: “Thưa có thấy, bạch Ðức Thế Tôn”. Ðức Phật hỏi tiếp: “Giả sử có người phải đốt lửa và góp nhặt những nhánh cây để đốt, các ông có phiền não gì không?”. Chư Tăng trả lời: “Thưa không, bạch Ðức Thế Tôn! Chúng con không giao động gì nếu các cành, các nhánh cây bị đốt”. Ðức Phật dạy thêm: “Tương tự như vậy này các Tỳ Kheo? Thân này không phải của các ông. Vì thân này không phải của các ông nên đừng phiền não nếu có vấn đề gì xảy ra cho thân thể mình”. 

Nếu các uẩn đều vô thường, nếu các uẩn (các tập uẩn) vào ra thì có một sự cải biến liên tục nơi các hợp thể; các hợp thể này trôi chảy liên tục trong thân và ngoài thân từng phút giây do hơi thở, do bay hơi, do trả lời tiếng gọi của thiên nhiên, các hợp thể luôn luôn lá vào nơi thân xác. Vì vậy khi nhận thức được sự trôi chảy liên tục của các hợp thể, ngay cả lúc đó phải nên buông bỏ các hợp thể, và nhờ buông xả ta được giải thoát an lạc. Không những chỉ có xác thân này được từ bỏ mà cảm giác, tri giác, tư duy, ý thức cũng vậy. Chúng đều vô ngã như những cành nhánh ở ngoài sân giống như chúng ta không chấp thủ bám víu vào việc đốt các cành cây thì chúng ta không bận tâm gì việc đốt cháy thân xác này. Vì rằng nếu chúng ta có bị thiêu sống trên giàn hỏa, chúng ta chỉ hồn nhiên, không xúc động, không bị ràng buộc vào sự việc. Chúng ta bị trừng phạt trên thế gian này là do chúng ta bám víu vào những vấn đề không thuộc về chúng ta. Chúng ta bị trừng phạt vì chúng ta còn bám vào sắc thân gọi là cái của chúng ta. Nếu tôi hỏi: “Bạn đã trả bao nhiêu tiền cho thân xác của mình, bạn sẽ trả lời sao?” 

Bạn mua nó không tốn tiền và vì mua thân này không tốn tiền thì làm sao bạn gọi nó là của mình. Bạn đã không mất đồng nào mua nó vì không tốn tiền mua, nên nó không thuộc về bạn và bạn không nên bám víu vào nó. Bạn phải luôn luôn sẵn sàng đánh mất thân này, cái thân mà bạn không phải trả tiền. Hãy nhớ, nếu bạn đánh mất thân này thì lập tức bạn sẽ có một thân khác. Tại sao buồn lo về việc mất thân khi bạn có thể có nhiều thân khác. Ðã có bao nhiêu thân xác mà bạn đánh mất trong nhiều kiếp qua? Vô số thân. Nếu số xương cốt của bạn trong nhiều kiếp qua được thu góp lại, chúng sẽ tạo thành một hòn núi to hơn những hòn núi ở Hy Mã Lạp Sơn. Nếu những giọt nước mắt mà bạn đã tuôn ra được gom chứa lại chúng sẽ tạo thành nhiều hơn bốn biển đại dương. Nếu những dòng máu của bạn tuôn ra được gom chứa lại, chúng sẽ tạo thành nhiều hơn bốn biển máu mà bạn đã mất trong nhiều kiếp qua. Vì lẽ đó bạn nên viễn ly hoàn toàn và đừng quan tâm về thân xác. 

Không ai có thể sát hại Ðức Phật. Vị Phật tối thượng thì không thể bị sát hại. Bạn có thể gom 100 súng máy bắn ra cùng một lượt vào Ðức Phật, điều này không có hiệu quả gì cả. Tại sao? Bởi vì một vị Phật tối thượng chỉ tịch diệt do năng lực ý chí của Ngài. Chỉ khi nào Ðức Phật quyết định nhập diệt, Ngài sẽ nhập diệt, còn trước đó thì không. Ðó là lý do tại sao khi Ma vương, ác ma cám dỗ, tiến gần đến Phật, yêu cầu Ngài nhập diệt, Ðức Phật sau khi chứng ngộ đã nói: “Ta sẽ không bao giờ nhập diệt cho đến khi nào khắp thế gian được quy y Phật đạo và các nam nữ đệ tử của Ta quán triệt Giáo Pháp một cách thông suốt từ đầu đến cuối thì lúc đó và chỉ lúc đó ta mới nhập diệt”. 

Ma vương là một kẻ rất quỷ quyệt. Hắn vốn không thích Ðức Phật, bởi vì hắn muốn là kẻ thống trị thế gian này. Ma Vương là ai? Hắn là Thiên ma, vị thần của sáu giác quan. Hắn muốn mọi người đều dưới quyền lực cai trị của mình. Ðức Phật vẫn nỗ lực cứu vớt mọi người thoát khỏi nanh vuốt của hắn và vì vậy đã có một cuộc so tài bất hạnh. Ma Vương sẽ rất vui vẻ nếu Ðức Phật tịch diệt. 

Năm Ðức Phật 80 tuổi, Ma vương lại đến một lần nữa và nhắc Ðức Phật về lời hứa của Ngài dưới cội Bồ đề trước kia. Ðức Phật trả lời: “Lành thay Ma Vương? Vui lên đi, ta sẽ tịch diệt trong sáu tháng nữa kể từ đây”. Ma Vương trả lời: “Thưa Ngài! Ngài đã nói với tôi rằng khi nào các đệ tử của Ngài liễu ngộ toàn bộ Phật Pháp Ngài sẽ nhập diệt. Giờ đây tất cả đệ tử đã thấm nhập Giáo Pháp, xin Ngài giữ lời hứa mà Ngài đã nói với tôi dưới cội Bồ Ðề. Xin Ngài hãy nhập diệt”. Ðức Phật trả lởi: “Hãy vui lên Ma Vương! Ta sẽ nhập diệt sau ba tháng nữa”. Và khi Ðức Phật tuyên cáo điều này, trái đất rung động nhiệm mầu. Ðúng ba tháng sau Ðức Phật nhập diệt. Ngài đã giữ lời hứa. Ðức Phật biết bằng thần lực như ý túc, ngài nhập diệt không phải do thức ăn hay vật gì. Ðó là năng lực ý chí của Ngài. Ngài phải nhập diệt vì Ngài đã quyết định nhập diệt chứ không ai có thể làm cho Ngài phải nhập diệt, ngoại trừ chính Ngài. Ngài nhập diệt bằng cách nào? Ngài nhập Thiền–xuất nhập Thiền và đi sâu vào Tứ thiền và rồi Ngài tự mình tịch diệt. 

Có một câu hỏi: “Nếu Ðức Phật là một con người, tại sao Ngài lại hành động như một vị thần?”. Ngài là vị thần vì Ngài đã hành động như một vị thần. 

Thế còn Niết Bàn là gì? Niết Bàn là dập tắt ngọn lửa tham, là trạng thái tuyệt đối tươi mát, nơi đó tuyệt đối không có lửa. Vì vậy khi ta đạt được Niết Bàn, không có gì bị hủy diệt cả, ngoại trừ những ngọn lửa, nghĩa là lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa buồn rầu, kêu ca, khổ đau và tuyệt vọng. Bởi vì sự sống không khác gì hơn là sự bừng cháy. Người nào thích sống, thích cháy liên tục, điều đó có nghĩa là vị đó thích sống trong địa ngục vĩnh cửu. Niết Bàn là giải thoát ra khỏi ngọn lửa và thoát ly mọi địa ngục mãi mãi. Vì vậy Niết Bàn là hạnh phúc tối thượng. 

Niết Bàn không phải hư vô, hủy diệt. Niết Bàn là thực tại, Niết Bàn là thực tại tối thượng của chân lý bất biến. Niết Bàn là ánh sáng. Thế gian là bóng tối. Nếu có ai yêu cầu bạn mô tả về đường (chất ngọt) thì bạn sẽ trả lời sao? Ðường màu trắng và nếm thì ngọt. Nhưng nếu bạn đặt một chút đường trên đầu lưỡi của bạn, bạn sẽ hiểu tất cả về đường; điều này thực tế hơn bất cứ định nghĩa nào về đường. Cách tương tự chúng ta có thể mô tả về Niết Bàn, nhưng nó phải được nếm trước khi bạn có thể hiểu một cách đúng đắn nó là gì. Giống như nếm đường, chúng ta phải chứng nghiệm Niết Bàn. Ngôn ngữ hạn chế không thể nào giải thích được Niết Bàn vốn vô tận và đòi hỏi một ngôn ngữ quảng bác hơn. Niết Bàn là hủy diệt ngũ uẩn (5 hợp thể) vốn là không. Ðồng thời vắng lặng cái không là có. Chân lý thì trường tồn chứ không không phải hư vô, không có gì. 

Ðến đây tôi xin nói qua về thân giáo và sự chuyển biến tâm thức của mình. Nghệ thuật thuyết giảng là giảng thuyết những gì bạn thực hành. Và hãy thực hành những gì bạn giảng thuyết. Khi một Giảng sư thuyết Pháp như vậy, thính chúng sẽ hưởng ứng và tin tưởng nơi sự thành thật của vị đó Hồi còn ở Mỹ, lúc mớỉ có 8 tuổi tôi thường đi đánh nhau với những đứa trẻ khác và tôi đã thắng. Sau đó tôi khởi ý tưởng muốn trở thành một võ sĩ quyền anh, một người hùng thắng giải, nhưng nay thì tôi đã chuyển ý, mong trở thành một người chiến thắng tinh thần để hàng phục vô minh ngu độn. Lúc còn nhỏ tôi thích vẽ tranh và tranh của tôi cũng được mọi người tán ngưỡng. Thế là tôi muốn mình trở thành nghệ sĩ; nhưng nay thì tôi muốn mình trở thành một nghệ sĩ tâm linh. Bởi vì nghệ thuật làm chủ bản thân mình mới là nghệ thuật vĩ đại và cao quý nhất. Khi tôi còn là thanh niên tôi cũng thường hay chơi vĩ cầm và ước mong mình sẽ là một nhạc sĩ; nhưng nay thì tôi thích mình trở thành một nhạc sĩ tâm linh để hát lên bài trường ca chân lý, đúng như tôi đang thực hiện bây giờ. Bởi vì bài ca chân lý là ca khúc du dương êm dịu nhất của tất cả–bởi vì khi bạn nghe loại nhạc thông thường nơi radio, làn sóng âm thanh phát ra những âm sóng làm khoái cảm màng nhĩ, cho bạn một cảm giác âm thanh đó rồi sóng âm thanh đó lại tắt. Một hạt sóng chạm đến màng tai rồi ngưng tắt. Hạt sóng kế cũng đến và đi. Quả là điên đầu, những tiếng đập liên tục của màng nhĩ do sóng âm thanh phát ra. Bạn có thể tưởng tượng âm nhạc du dương nhất chỉ là những tiếng dập do các sóng thanh phát ra đập vào màng nhĩ chứ không gì khác cả. Vậy tại sao chúng ta lại bận tâm về một chút chuyển động của không khí. Nếu ai đó phân tích âm thanh theo tri kiến vật lý, chắc chắn vị đó sẽ nhàm chán loại âm thanh này. Bởi vì các pháp; nếu nhìn đúng thực tướng của chúng thì đáng ghê tởm và cần loại bỏ. Thế nhưng chỉ có bài ca chân lý mới quả là khúc hát thiên thu bất diệt. 

Thật là diễm phúc cho tôi khi từ bỏ được ngành hóa học tầm thường này. Nay tôi mới nhận ra rằng ngành hóa chất này đã bị người ta khai thác, sử dụng hóa chất để chế tạo bom nguyên tử. Tôi vui mừng đã giải nghệ trước khi các loại bom nguyên tử được chế tạo bằng kiến thức hóa học nguy hại. 

Thời đó có lần tôi muốn trở thành Bác sĩ nhưng khi làm việc trong phòng thí nghiệm tôi mới chợt nghĩ rằng mình phải giết không ít những con ếch, mèo, chó trong lớp sinh lý khoa học này, vào thời điểm tôi đang nghiên cứu Phật Pháp. Tôi tự nhủ mình có thể là một Phật tử tốt hay là một Bác sĩ; mình không thể nào trở thành cả hai được. Nếu hành động sát hại sinh vật là khởi đầu cho một nghề thì hậu quả của nghề này là gì? Có lẽ đó là sự sát hại chúng sinh hữu tình. Một sự khởi đầu đã tạo nhân xấu, bảo đảm cho quả xấu lúc kết thúc. Vì vậy tôi tự nghĩ nếu khởi đầu cho nghề y là sát hại sinh mạng những con vật nơi phòng thí nghiệm thì mai sau sẽ dẫn đến việc giết hại con người, nghĩa là nếu chúng ta huân tập nghiệp sát, giết hại con vật nhỏ bé hơn, sẽ trưởng thành nghiệp sát giết hại lần lượt những sinh vật cao to nhất trong tất cả chủng loại động vật. 

Bây giờ tôi muốn trở thành một bác sĩ Tâm linh nên phải từ bỏ nghề Y sĩ trần tục này. Y sĩ tâm linh cấp thuốc trường sinh cho con người. Khi bom nguyên tử thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki, các bác sĩ hối hả chạy đến đó để cấp cứu nạn nhân, nhưng họ đã quá trễ. Bom đã ném xuống rồi, các bác sĩ tầm thường đó làm được gì?

Bác sĩ tâm linh vẫn tin rằng ngừa bệnh vẫn hơn là chữa bệnh. Chúng ta chữa bệnh tham, sân, si. Nếu bệnh tham, sân, si được điều trị thì sẽ không có bom nguyên tử. Và nếu không có bom nguyên tử thì cần gì phải tàn ác xử lý con người. Ðó là chứng bệnh tâm thần gây nên sự cố tàn phá và hủy diệt. Nếu chỉ dùng kiến thức y khoa thì sẽ không bao giờ đáp ứng nỗi sự hủy diệt do đầu óc khoa học gây ra. Vậy thì con đường duy nhất mà ta có thể tránh khỏi sụp đổ thế giới bằng cách kết chặt bên nhau giữa khoa học và năm Giới điều Phật Giáo. Nếu năm Giới điều và khoa học đi song song nhau thì thế giới sẽ được cứu nguy khỏi bị tàn phá. Nếu để khoa học độc diễn một mình không có năm Giới điều phụ họa thì chắc chắn thế giới sẽ đi đến chỗ điêu tàn phá sản. Thuốc giải độc duy nhất đối với khoa học hủy diệt là năm Giới điều Phật Giáo. Bởi vì Giới điều không có gì khác hơn là tình thương yêu vô lượng đối với loài người và loài vật. 

Nay tôi muốn trở thành chiến sĩ tâm linh giao chiến với mặt trận nội tâm chống lại tham, sân, si chứ không phải là mộl võ sĩ thường tình trên võ đài. Tôi muốn thành một nghệ sĩ tâm linh bằng sự thực hành nghệ thuật chinh phục mình. Tôi muốn là một nhạc sĩ tâm linh trình diễn khúc nhạc chân lý bất diệt như đang thực hành hiện nay. Tôi muốn mình là nhà hóa học tâm linh, phân tích chính con người mình vốn là loài tinh thể phức tạp nhất, bởi vì hiểu được chính mình là hiểu được toàn thế giới. Tôi muốn trở thành bác sĩ tâm linh chữa trị bệnh tâm thần cho nhân loại. Bệnh tham, sân, si đang thiêu đốt toàn thế giới. Ðây là những nghiệp vụ cao quý nhất mà tôi đang kỳ vọng. Tôi cũng biết rằng nghề Sa Môn KHẤT SĨ không cho phép ta nói láo, bởi vì tôi rất ghét sử dụng ngôn ngữ không thành thật, nay thì tôi rất hài lòng với nghề Sa Môn sau cùng của tôi. Tôi không cần thí nghiệm gì nữa bất cứ nghề nào khác. Ðây đúng là chính nghiệp của tôi. Tôi nhận ra rằng tôi sinh ra là để thuyết giảng Phật Pháp cho các nước Tây phương vốn không hiểu biết gì về Phật Giáo. 

Hãy làm cái nghề mà bạn đã huân tập kiếp trước, tôi tin rằng mỗi người đều có một năng khiếu trong một số nghề nghiệp của mình. Ngay như một người hèn kém nhất cũng có đặc khiếu về một số nghề nghiệp của mình nếu vị đó biết được các nghề mà chính mình đã huân tập (nghề đó). Sự phiền muộn mà người ta gặp phải là vì họ luôn luôn chọn lầm nghề, các nghề mà họ chưa từng huân tập–và do đó họ hay bị sai lầm và không có thiện xảo. Chúng ta vẫn thấy những Bác sĩ làm thợ mộc và những thợ mộc lại làm Bác sĩ. Ðó là thảm kịch của tính cách con người. Nhưng nếu ai nghiệp dĩ là thợ mộc, hãy thực hành nghề thợ mộc, và những ai nghiệp dĩ là Bác sĩ, hãy theo nghề nghiệp y dược, họ sẽ trở nên rất thiện xảo nơi đường lối chuyên nghiệp của mình. Chúng ta nên cố gắng thực hành nghề nghiệp tương tự mà chúng ta thường thực hành trong quá khứ–thiện nghiệp kiếp xưa. Hãy thực nghiệm cho đến khi bạn thấy được sự thực hành hoàn hảo nhất. Tôi phải thực nghiệm bằng phương pháp tùy thuận cho đến khi tôi khám phá ra các nghề mà tôi đã sản sinh ra trước kia. Bất hạnh thay cho con người họ bám chặt vào cái nghề đầu tiên mà họ chộp được chứ chẳng hề thực nghiệm tìm ra nghề nghiệp nào thuận lợi nhất cho mình. Thế nên họ luôn luôn tồn tại những nghề tầm thường vụng về không bao giờ cất đầu lên nổi. Mọi người đều có thể thiện xảo trong nghiệp vụ nếu vị đó chọn đúng cái thiện nghệ của mình mà đã huân tập trước kia. Hãy nương theo các khuynh hướng trước kia bạn sẽ hoàn thành những điều kỳ diệu dù chỉ cần một ít nỗ lực hoặc không cần. Bạn hãy hình dung một ít hơi nước do pittông đẩy đi cùng chiều, lôi được một đầu máy xe lửa và cả toa xe. Tại sao vậy? Bởi vì hơi nước được đẩy chuyển cùng một chiều, cùng một lúc. Bạn thấy đó, có phải thống nhất là sức mạnh. Tất cả không khí tập trung vào một điểm, nó tạo nên sức mạnh kinh khủng. Ðịnh một chút mà chuyển hóa toàn thế giới là vậy. 

Hôm nay đã hơn hai ngàn năm trăm năm, có bao nhiêu phật tử trên quả cầu này, và có bao nhiêu người đang thực tập như vậy. Dù là Ðức Thế Tôn đã viên tịch song ngài vẫn hóa độ chúng ta những thế kỷ sau này ở Mỹ bằng Pháp bảo của Ngài. Ðức Phật vẫn đang chuyển hoá khai thị chúng sanh cho dù Ngài đã tịch diệt từ lâu rồi. 

Một sự kiện khá quan trọng có ảnh hưởng đến sự phát triển của Phật giáo, đó là sự đoàn kết nội bộ Phật Giáo. Bởi đoàn kết là sức mạnh, sức mạnh là tự do giải thoát. Chia rẽ là yếu kém, yếu kém đưa đến nô lệ. Nếu Phật Giáo muốn đứng vững, chúng ta phải đoàn kết. Chúng ta có thể chứng tỏ cho thế giới thấy được một mặt trận đoàn kết thì những bài thuyết pháp của tôi mới có thẩm quyền ở Tây phương. Nếu mọi người Phật tử có thể chứng tỏ một sức mạnh đoàn kết và nếu họ đều hậu thuẫn cho tôi thì khi đến thuyết giảng ở nước Mỹ tôi mới có đủ oai lực để nói chuyện. Vì sao vây? Bởi vì toàn thể Phật tử đứng sau tôi. Ngược lại nếu các Phật tử khởi sự giao chiến với chính mình, thì lúc đó mặt trận đoàn kết ở đâu? Và người Mỹ sẽ nói: “trong khi Ngài đang thuyết giảng về lòng Từ bi thương người thì các Phật tử của Ngài đang tranh chấp ẩu đả lẫn nhau, nghĩa là thế nào? Chính các đệ tử của Ngài không thực hành những điều Ngài giảng dạy, vậy thì tại sao Ngài lại dạy cho chúng tôi?” Thế nên chúng ta hãy là những đệ tử Phật thuần thành sáng suốt chứ không phải danh nghĩa trên lý thuyết. Phật tử ở Singapore đây rất có vẻ rất khao khát khoa học. Nếu họ mong muốn đoàn kết như khát vọng khoa học, tôi dám nói Singapore sẽ thành công hơn nữa trong lĩnh vực khoa học. 

Phật tử cần được khuyến khích đọc Tam Tạng Kinh. Bởi vì chúng ta không sợ kiến thức, chúng ta cảm nhận rằng một người càng có nhiều kiến thức thì càng thuận lợi cho mình. Vì vậy chúng ta nên khuyến khích Phật tử không những chỉ đọc Tam Tạng kinh điển của mình thôi mà còn đọc ngay cả Kinh sách của Tôn giáo khác nữa. Tại sao? Bởi vì một người chỉ biết một tôn giáo thôi, thì coi như không biết gì. Chúng ta chỉ có thể đánh giá tôn giáo của mình bằng cách so sánh tôn giáo của mình với những tôn giáo bạn. Cũng như chúng ta chỉ có thể đánh giá chiều cao của một người khổng lồ bằng cách đặt một chú lùn kế bên. Lúc đó bạn mới nhận ra sự khác biệt rõ ràng. Bạn có thể đánh giá tôn giáo của mình là Phật Giáo với vẻ đồ sộ hùng tráng bằng cách đặt cạnh bên tôn giáo khác nhỏ nhoi tầm thường. Lúc đó chúng ta mới nhận thức được vẻ đẹp chân thực của Phật Giáo khi so sánh với các tôn giáo khác. 

Về phần tôi, khi tôi gởi ba gói sách Phật Giáo về cho anh tôi–một linh mục Thiên Chúa La Mã để cảm hóa anh tôi theo Phật Ðạo. Anh tôi liền gởi cho tôi một lá thư với lời lẽ như sau: Em Salvator yêu mến (tên thánh của tôi trước kia), anh đã nhận được ba gói sách Phật Giáo của em, nhưng vì thời tiết bên ngoài quá lạnh và vì không có củi trong nhà, anh đã kịp thời ném ba gói sách Phật của em vào lò sưởi rồi, và nhờ vậy căn phòng lại ấm ra”. Ðó quả là hơi nóng quá đắt tiền!. Tôi liền trả lời: “Anh Raphael kính quý! Nếu em biết anh cần dùng củi cho lò sưởi thay vì chân lý thì em đã gởi tặng cả thân xác của em cho lò sưởi của anh chứ không bao giờ gởi ba cuốn sách Phật mà anh đã cuồng tín gởi vào lửa”. Bởi vì người nào đó ném những cuốn Kinh Phật vào lửa, vị đó phạm tội ác nghiêm trọng, vì tôi không tặng những cuốn Kinh Phật cho lửa, tôi đã gởi cho anh tôi. Nếu anh ấy không cần những cuốn sách đó, có thể hoàn gởi lại qua đường bưu điện. Do vì đưa quyển sách Phật của tôi vào lửa, quyển sách đã bị đặt sai chỗ. Vả lại, tôi có địa chỉ, nếu không muốn thì gởi trả lại cho tôi. Anh tôi ném vào lửa, coi như quyển sách bị ăn cắp. 

Lúc còn đang học ở Ðại học Columbia một trong những chủ đề của tôi là sinh vật học. Tôi đã hỏi vị Giáo Sư sinh vật xem ông ta tin có linh hồn không. Ông Giáo Sư trả lời: “Lập đi lập lại nhiều lần mổ xẻ sinh vật; lập đi lập lại nhiều lần, tôi đã tìm kiếm linh hồn trong những con vật, nhưng cho đến nay tôi vẫn chưa bao giờ có thể đặt được linh hồn trên bàn mổ thí nghiệm để quán sát và thực nghiệm. Tôi không bao giờ tin có linh hồn". 

Khi Laplace–nhà toán học vĩ đại người Pháp viết một tuyệt tác đề tài: “Cơ chế thiên thể” cấu trúc cõi Trời, ông gởi quyển sách cho Napoleon. Vị tướng Napoleon cũng là một nhà toán học vĩ đại, ông có thể đánh giá nhiều công thức toán học. Khi Napoleon đọc xong quyển sách “cơ chế thiên thể”, ông trả quyển sách lại cho tác giả Laplace và nói: “Ông Laplace! Quyển sách này của ông rất tuyệt nhưng trong sách còn có một khuyết điểm là toàn bộ quyển sách ông đã không hề đề cập đến chữ nào về Thượng Ðế”. Vì vậy Laplace đáp lại: “tập sách của tôi hoàn toàn đầy đủ, toàn hảo, không cần chữ Thượng Ðế, bởi vì toán học của tôi toàn hảo trong chính nó không cần đến chữ Thượng đế”. Từ đó trở đi khoa học đồng ý rằng không có Thượng đế và không có linh hồn. 

Phật Giáo là khoa học cao siêu nhất đồng ý với khoa học vật lý khi nói rằng không có Thượng đế. Không có Thượng đế sáng tạo và không có linh hồn bất diệt thường hằng. Trong thế giới mọi sự vật đều ở trạng thái động, không có gì tịnh cả. Mọi sự vật đều là sức mạnh năng lượng. Không có vật chất. Vật chất chỉ là năng lượng cô đọng. Chúng ta không là gì cả mà chỉ là một điện lực. Bạn có thể nào nói chùm điện lực của bạn là cá nhân (riêng tư) không? bạn không thể nào nói như vậy được. Có ai đã từng nghe điện lực cá nhân bao giờ? Ðiều đó không bao giờ có được. Tất cả điện lực đều là vô ngã, vậy thì ai đang thuyết Pháp đây? Một chùm điện lực thuyết Pháp cho một chùm điện lực nghe. Vì vậy không nên có một xúc động nào. Vị đó không nên bực tức khi nói chuyện. Vị đó hoàn toàn hỷ xả dù đang ở một mình nơi sa mạc. Khi tôi thuyết Pháp, tôi hư vô hóa với thính chúng rằng tâm mình đây là thính chúng. Thính chúng là gì? Là năm uẩn. Vậy năm uẩn này là gì? Chúng gồm năm hợp thể: sắc thân, cảm giác, cảm nhận, rung động, và ý thức. Năm uẩn đều vô thường, khổ và vô ngã. Hãy để thính chúng không có mặt và tôi không có mặt. Tại sao phiền não? Ai tức giận? Ta có thể nói chuyện bằng sự an tịnh, trầm mặc. Vị đó không thể suy tính kỹ càng những gì mình định nói. Vị đó có thể làm hài lòng thính chúng mà không nổi cơn tức giận. Nếu quả như tôi nổi cơn bực tức thì lúc đó thính chúng cũng sẽ tức giận theo do luật rung động đồng tính trong vật lý. Và như vậy mục tiêu sẽ không bao giờ thành tựu. Lẽ ra tôi phải bỏ cuộc thuyết Pháp nếu như tôi nổi cơn tức giận dù biết chân lý sẽ luôn luôn cứu nguy chúng ta trong mỗi và bất cứ tình huống nào. 

Một vấn đề cũng cần nêu lên về kiến thức của hàng Tu sĩ Phật Giáo chúng ta. Các linh mục đạo Thiên Chúa dường như được người ta tôn trọng hơn bởi vì họ đều tốt nghiệp đại học trước khi trở thành linh mục. Vì vậy tôi dám đoan chắc rằng ngay trong Phật Giáo, nếu tất cả Tăng ni nên tốt nghiệp đại học rồi mới đi tu, theo tôi nghĩ sẽ thuận lợi rất nhiều trong công tác hoằng Pháp. Bởi vì nếu không có trình độ văn hóa đại học thì một nhà Sư không thể nào thuyết giảng ở nước ngoài được, nếu không có kiến thức khoa học, kiến thức về sinh ngữ, không có cơ sở về khoa học, ta không thể nào trình bày tôn gỉáo một cách đúng đắn đối với nhân dân Mỹ có trí thức. Một thanh niên cần phải vào đại học trước khi xuất gia thì bấy giờ giáo hội Tăng Già mới được mọi người ngưỡng mộ. Lấy trường hợp của Thái Tử Tất Ðạt Ða, trước tiên Ngài đã hoàn tất học vấn kiệt xuất rồi mới đi tu. Chúng ta phải gieo nhân trước rồi mới được quả sau. Trước tiên, nhân là kiến thức cho ta năng lực và sau đó có năng lực ta mới cống hiến tốt đẹp cho cuộc đời. 

Những gì mà tôi thuyết giảng từ trước đến giờ chỉ là phần giới thiệu của bài Pháp hôm nay. Tôi muốn trình bày đại Kinh khuyến hóa La Hầu La. 

Một thời Ðức Phật ở thành Xá Vệ, Ðức Phật đắp y xung quanh Ngài, tay cầm bình bát ra đi hóa duyên, con trai của Ngài là La Hầu La cũng ôm bình bát đi theo Ngài. Ðức Phật biết La Hầu La đi phía sau, Ngài không quay đầu lại, Ðức Phật dạy: “Này La Hầu La tất cả vật thể sắc thân từ quá khứ, hiện tại, tương lai, bên trong hay bên ngoài, cao hay thấp đều mang tính chất vô thường. Cái này không phải là ta, cái này không phải của ta. Ðây không phải là bản ngã của ta”. La Hầu La hỏi: “Bạch Ðức Thế Tôn! Chỉ có sắc thân thôi sao?” Ðức Phật trả lời: “Không phải chỉ có xác thân là vậy mà cảm giác, tri giác, tư duy và ý thức cũng vậy cả. Chúng đều là vô thường. Chúng không phải là ta, không phải là bản ngã của ta”. Vì thế La Hầu La tiến đến gốc cây, bởi vì Ngài cảm nhận rằng không cần phải đi bát ngày hôm đó vì đã tiếp thu được bài Pháp cao quý từ Kim Khẩu của Ðức Thế Tôn, La Hầu La đã nhủ thầm: “ta đã thọ hưởng món ăn tinh thần từ Kim Khẩu của Ðức Phật, ta sẽ tiêu hóa hết Pháp thực đó và rồi sẽ đến ngồi dưới cội Bồ Ðề, cố gắng quán triệt những lời dạy của Ðức Phật”. Trong khi La Hầu La đang tỉnh tọa dưới gốc Bồ Ðề, Tôn giả Xá Lợi Phất liền ngỏ lời: “Này La Hầu La hãy tập trung vào hơi thở, phát huy chánh niệm khi thở vô thở ra, vì Pháp này nếu được phát triển và huân tập sẽ đem đến sung mãn và vô số lợi lạc”. La Hầu La tiếp tục thiền định đến nữa đêm rồi La Hầu La đến vấn thỉnh Ðức Phật: “Làm thế nào để tập trung vào hơi thở ra thở vô. Cách thiền quán vào hơi thở là gì?”. Ðức Phật ban cho những lời chỉ dạy như sau: “Này La Hầu La! Mọi cá thể đều là sắc, có yếu tố đất, loại yếu tố đất thuộc cá thể hay yếu tố đất bên ngoài. Ðất của cá thể là gì? Yếu tố đất cá thể gồm có 20 loại: tóc trên đầu, tóc trên thân, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, màng phổi, lá lách, phổi, ruột non, ruột già, bao tử, phân, não. Tất cả bộ phận này cũng tạo nên yếu tố đất thuộc về sắc thân. Ðất có hai loại: yếu tố đất bên trong và yếu tố đất bên ngoài. Hãy nhớ rằng đất là đất, dù bên trong hay bên ngoài đều không khác nhau. Bởi vì nếu bạn muốn biết toàn bộ yếu tố đất trên toàn thế giới, bạn phải tổng cộng yếu tố đất cá thể với yếu tố đất bên ngoài để rồi bạn mới có được tổng số toàn bộ yếu tố đất trên toàn thế giới. Hiểu rõ điều này bạn phải tự nhủ: “Thân này không thuộc về ta, ta không phải thân này. Thân này không phải là bản ngã của ta”. Quán tưởng yếu tố đất bằng cách này bạn sẽ nhàm chán và ghê tởm yếu tố đất khi bạn nhận ra rằng nó chỉ là đất. Xưa kia tôi đã bị trói buộc vào đất, tôi không để mình bị trói buộc nữa trong quả đất đã gây cho tôi quá nhiều phiền não từ nhiều kiếp xa xưa. 

Bây giờ chúng ta nói đến yếu tố nước. Này La Hầu La, yếu tố nước có hai loại: nước thuộc cá thể và nước bên ngoài nhưng không hề khác nhau giữa 2 yếu tố nước đó. Yếu tố nước cá thể là gì? Có mười hai loại: mật, đàm, máu, mủ, mồ hôi, mỡ đặc, nước mắt, nước nhờn, nước miếng, nước mũi, nhớt, nước tiểu. Nếu bạn muốn biết tổng số nước trong toàn vũ trụ, bạn phải cộng thêm yếu tố nước cá thể vào yếu tố nước bên ngoài thì lúc đó bạn mới có con số tổng kết tất cả. Tri kiến được điều này đúng như nó là, bạn phải nhận thức là yếu tố nước cá thể bên trong không phải là ta, nó không thuộc về ta, không phải là bản ngã của ta. 

Khi giác ngộ về sự kiện này bạn mới ghê tởm yếu tố nước mà bạn không còn ràng buộc luyến ái nó nữa. Bởi vì bạn đã nhận thức được yếu tố nước là yếu tố nước, làm sao nó có thể là của ta được. Nó không khác yếu tố nước bên ngoài. Khi bạn thấy một cốc nước, bạn không được nói nước của tôi. Thật ra nó đến từ những đám mây và ta không nên chấp thủ nó và gọi nó là mình. Kế đến là yếu tố không khí. Ðức Phật dạy: “Có hai loại yếu tố khí: yếu tố nội khí và ngoại khí”. Yếu tố nội khí là gì? Là không khí nhập vào. Yếu tố ngoại khí là gì? Là không khí đi ra. Ai có óc thông minh sẽ biết rằng khí là khí dù nó ở bên trong hay bên ngoài. Chúng ta thở bao nhiêu lần, hai lá phổi giống như ống bể, chúng phồng ra và xẹp lại, vì vậy không khí thì luôn luôn ra vào, chúng ta không thể nói: đây là không khí của tôi. Làm sao nó lại là của chúng ta được? Nhận biết rất rõ rằng tổng số toàn bộ không khí là không khí bên ngoài cộng với không khí bên trong, chúng ta trở nên khiếp sợ với không khí cá thể và nói: “khí này không thuộc về tôi, khí này không phải là tôi, khí này không phải bản ngã của tôi–và trên phương diện tinh thần, chúng ta từ bỏ nó”. 

Rồi đến yếu tố lửa. Yếu tố có hai loại: lửa cá thể và lửa bên ngoài. Yếu tố lửa bên trong như là lửa vốn phát sinh khi thức ăn được tiêu hóa (giờ đây sự tiêu hóa đang tiến hành và dĩ nhiên nhiệt nóng ở mức độ cao và có sức nóng của tâm linh, cũng vậy sức nóng của tư tưởng). Tất cả lửa cá thể cần được thêm lửa ở bên ngoài vào thành một tổng số toàn bộ lửa trên thế giớì. Lửa là lửa dù bên trong hay bên ngoài. Nó hoàn toàn vô ngã. Ðây không phải là ta, cái này không thuộc của ta, cái này không phải là bản ngã của ta. Biết rõ điều này ta trở nên nhàm chán lửa cá thể và bố thí tất cả, ta từ bỏ nó về phương diện tinh thần.

Tương tự, yếu tố khoảng trống có hai loại: nội không và ngoại không. Nội không là khoảng trống rỗng của bao tử, khoảng trống của ruột già, ruột non, thực quản và khoảng trống của lỗ mũi, lỗ tai... biết chắc rằng khoảng không là khoảng không dù nó ở trong hay ở ngoài và nếu muốn biết được tổng số toàn bộ khoảng không trên thế giới, chúng ta phải thêm nội không vào ngoại không. Ta phải khiếp hồn với khoảng không gian đó; vị đó phải nhận ra rằng: “khoảng trống không phải là ta, không thuộc của ta, khoảng trống này không phải là bản ngã của ta trên phương diện tinh thần”, quán như vậy vị đó từ bỏ nó. 

Ðức Phật dạy thêm: Này La Hầu La, hãy trưởng thành như đất này, bởi vì nếu con tu tập được thì không có ấn tượng giác quan nào dù thoải mái hay khó chịu có thể trói buộc được tâm thức con. Giả sử như con ném phân, hay nước tiểu, hay máu ra đất, đất có nổi giận không. Ðất không bao giờ tức giận. Tương tự như vậy, Ðức Phật dạy tiếp La Hầu La: Con là đất, vậy hãy phát triển tâm mình giống như đất, hãy dửng dưng bất động như đất, nếu có người nào lăng nhục, khiển trách hoặc khen tặng con; dù được hay mất con đừng vì đó mà kiêu hãnh hay tuyệt vọng. Nhưng con phải duy trì tinh thần vô tư công bằng con sẽ không bao giờ bị đau khổ. Nhờ tu tập pháp khinh an, buông xả con mới duy trì an hưởng hạnh phúc mãi mãi. 

Hãy trưởng thành như nước này La Hầu La, vì con là nước. Nước có tức giận không nếu con ném hoa sen, hoa hồng hay hoa lài vào nước? Nước có phấn khởi không? giả như con tưới dầu thơm vào nước, nước có vui sướng không? Giả như con ói mửa vào nước, nước có tức giận không? Tương tự như vậy, con là nước thì phải trui rèn tâm hạnh ly dục, vô tư, tu tập hạnh an lạc, xả bỏ. Dù khen chê, con đừng tuyệt vọng hay kiêu căng, nhưng con hãy giữ tâm bình thường, có vậy con sẽ không bao giờ đau khổ dù có nhiều bất trắc xảy ra. Ðây là trạng thái của bậc Alahán, hoàn toàn tự tại trong mọi tình huống. 

Này La Hầu La con hãy trưởng thành như không khí. Giả như con tưới dầu thơm vào không khí, không khí vẫn không vui sướng. Giả như con ném phân, máu hay nước tiểu vào không khí, không khí vẫn không tức giận. Hãy từ bỏ không khí. Nếu con trưởng thành như không khí, dù được mất, dù khen chê con sẽ không bao giờ kiêu căng hay tuyệt vọng. 

Này La Hầu La con hãy trưởng thành như lửa, bởi vì con là lửa. Giả như con ném phân, máu, nước tiểu vào lửa, lửa vẫn không nổi giận. Giả như con ném hoa sen, hoa hồng, hoa lài vào lửa, lửa vẫn không sung sướng. Tương tự, nếu con khinh an tự tại như lửa thì con sẽ không bao giờ thất vọng hay khổ đau. 

Này La Hầu La con hãy trưởng thành như không gian, bởi vì con là không gian. Không gian ở đâu? Con không thể nắm bắt không gian bằng tay mình. Cũng vậy, con đừng để bị dính mắc vào những lời xấu ác hay lời sĩ nhục. Chúng ta đừng chấp thủ vào những lời khen chê của nhân loại. Trong thế gian này không có ai luôn luôn được khen hay luôn luôn bị chê. Nếu một người nói ít, vị đó bị chê. Nếu vị đó nói nhiều, vị đó bị chê. Nếu vị đó nói vừa phải, cũng bị chê. Vì vậy trên trần gian này không có ai có thể làm hài lòng mọi người. Ngay Ðức Như Lai cũng không bao giờ làm mãn nguyện hết thế gian được huống là con. Chúng ta phải hoàn toàn tự tại trước mọi phê phán của thế gian như là không gian vốn chẳng bao giờ dao động trước bất cứ sự khiêu khích hay ca ngợi nào. Nếu chúng ta nỗ lực tu tập tâm khinh an tối thượng, chúng ta sẽ mãi mãi được phúc lạc và đây là tâm thái thù thắng nhất. 

Ðức Phật dạy: này La Hầu La, con hãy trưởng thành trong tâm từ, nếu con giữ phạm hạnh này, mọi ác hiểm sẽ biến mất. Con hãy trưởng thành trong tâm Bi, nếu con được phạm hạnh này, mọi cơn bực tức sẽ tan biến. Hãy trưởng thành trong tâm Hỷ đối với hạnh phúc của người khác. Này La Hầu La nếu con giữ được phạm hạnh này, mọi thù hận sẽ tiêu tan. Hãy trưởng thành trong tâm Xả. Này La Hầu La nếu con thực hiện được vậy, mọi mâu thuẫn sẽ trôi qua. Hãy phát triển niệm tưởng về sự uế tạp của thân xác. Này La Hầu La nếu con thực hiện được như vậy, tham dục sẽ biến mất. Ðây là quán đề mục tham thiền nhận ra rằng thân là ghê tởm. Nếu chúng ta từ bỏ thân xác, ta sẽ thoát khỏi dục vọng. Ðó là lý do mà ta được yêu cầu thiền định tại nghĩa địa–nơi mà ngày xưa các thây chết được bày ra ngoài trời. Hãy trưởng thành trong tri giác về tính chất ngắn ngủi của vạn pháp. Này La Hầu La nếu con thực hiện được điều này thì lòng tự hào về bản ngã sẽ tan biến. Nếu con luôn luôn thiền quán về bản tính vô thường của các pháp, ý niệm về TA sẽ tắt lịm. Con sẽ không bao giờ nghĩ đến tôi, của tôi, bản ngã của tôi. Nếu con nhận thức được rằng vạn pháp đều trôi chảy, biến đổi từng khoảnh khắc, vậy thì cái Ta ở đâu? Không thể nào có cái ta thường hằng trong niệm tưởng đang trôi chảy. Niệm tưởng thì luôn luôn thoáng qua vô thường. Vậy bản ngã ở đâu? Nếu bản ngã có đó thì bản ngã cũng bay qua mất. 

Hãy trưởng thành trong chánh niệm vốn xuất phát từ hơi thở bình thường. Này La Hầu La nếu phẩm hạnh được phát triển và huân tập, đưa đến thành quả phong phú và những điển hình của sự lợi lạc thù thắng. 

Nhờ tu tập pháp sổ tức quán, con sẽ hiểu và có khả năng tính đúng thời điểm mà con định an nhập Niết Bàn. Có một câu chuyện của một vị La Hán, vốn tu tập thiền quán sổ tức, đồng thời biết rõ chính xác thời điểm mà vị A La Hán sắp tịch diệt. Vị A La Hán nói với các Tỳ Kheo: xin hoan hỷ theo dõi tôi, vì tôi sẽ nhập diệt trong lúc đang đứng. Quý Sư đã từng trông thấy người ta chứng nhập Niết Bàn trong khi đang ngồi, đang nằm; tôi sẽ chứng tỏ cho quý Sư thấy bằng cách nào tôi chứng đạt Niết Bàn trong khi đang đứng. Vị A La Hán nhìn ánh trăng, Ngài biết mình sẽ nhập diệt trong một thời gian ngắn nữa. Ngài khởi sự bách bộ lên xuống. Ngài nói: “Tôi sẽ thiền hành từ đây cho đến cuối kia. Tôi sẽ lên xuống một lần nữa, chừng nào chân tôi bước đến đường biên cuối, tôi sẽ nhập Niết Bàn”. Chư Tỳ Kheo canh chừng khi vị A La Hán kinh hành lên xuống, lại đi lên, ngay khi Ngài chạm chân đến đường biên cuối, Ngài hoát nhiên chứng đạt Niết Bàn.

Với chánh niệm trong hơi thở được huân tập và phát triển như vậy, người ta sẽ biết chính xác giờ phút lâm chung của mình. Bởi vì nhờ biết được niệm tưởng sau cùng. Dĩ nhiên niệm tưởng sau cùng là niệm tưởng tốt chứ không thể là niệm tưởng xấu. 

Trong khi tỉnh giác hơi thở sau cùng, vị ấy giữ tâm mình nhiếp trụ Niết Bàn. Nếu đạt được thiện quả này, vị đó sẽ không bao giờ tái sinh nữa. Ðó là niệm tưởng sau cùng của mình. Khi vị ấy sắp lâm chung, đương nhiên vị đó trụ tâm vào thiện niệm sau cùng và khi viên tịch với thiện mệm sau cùng, vị ấy sẽ tái sinh ở cảnh giới tốt đẹp nếu vị ấy không đạt chứng Niết Bàn. 

Phật Giáo là tôn giáo duy nhất đề cập đến Niết Bàn và con đường đưa Niết Bàn. Các tôn giáo khác không biết Niết Bàn là gì và càng không biết hơn con đường dẫn đến Niết Bàn. Cõi trời thì không thường hằng. Một hữu tình có thể đọa xuống từ cõi trời, nhưng chưa hề có ai đọa lạc từ cõi Niết Bàn. Ðiều đó không thể có được, Niết Bàn là tâm thái chớ không một nơi nào. Chỉ có Phật Giáo mới có Niết Bàn và con đường tu tập đi đến Niết Bàn. 

Ðức Thế Tôn là người đã khám phá ra Niết Bàn và con đường tu tập đi đến Niết Bàn. Thật là may mắn cho chúng ta, được kính lễ thờ phụng người phán ra chân lý, chúng ta bái ngưỡng Chánh Ðạo. Thế nên điều duy nhất còn lại cho chúng ta phải thực hỉện đó là bước đi dũng mãnh trên đạo lộ và đạt chứng Niết Bàn–Chân lý mà Ngài đã chứng thực và khai thị cho chúng ta. 

Do quả phước vô lượng mà quý vị đạt được hôm nay, cầu mong vị thông dịch viên của tôi, người đã tận tụy làm việc chuyển ngữ bài pháp–cầu mong thiện hữu không có một cảm nghiệm nào khác khi bị chó cắn lần nữa. Cầu mong thiện hữu tránh khỏi những con chó dữ vật chất cũng như tinh thần. 

Những con chó tâm thức là tham, sân, si. Cầu mong quý vị giải thoát mọi phiền não đau khổ vể hai phương diện vật chất và tinh thần. Cầu mong tất cả thính chúng sớm đạt đươc Niết Bàn an vui tối thượng.

Nguồn: Thiền viện Nam Mô (Hưng-Lộc, Trảng-Bom, Đồng Nai)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét